|
Khóa
Thứ Sáu
Triết Lý Ðạo Phật
hay là Ðại Cương Kinh Lăng Nghiêm
THAY LỜI TỰA
Bài
Thứ Nhất
A.- PHẦN DUYÊN KHỞI
B.- PHẦN CHÁNH ĐỀ
I.- Nguyên nhơn Phật nói kinh
II.- A Nan cầu Phật dạy phương pháp tu hành, lần thứ nhất.
III.- Phần lược giải:
1. Định danh và giải nghĩa tên kinh.
2. Nội dung kinh Lăng Nghiêm
Bài
Thứ Hai
BẢY ĐOẠN PHẬT HỎI VỀ TÂM
I.- A-nan chấp tâm ở trong thân
II.- A-nan chấp tâm ở ngoài thân
III.- A-nan chấp tâm ẩn trong con mắt
IV.- A-nan chấp lại tâm ở trong thân
V.- A-nan chấp tâm tùy chỗ hòa hợp mà có
VI.- A-nan chấp tâm ở chính giữa
VII.- A-nan chấp "không trước" làm tâm
Bài
Thứ Ba
I.- Anan cầu Phật dạy phương pháp tu hành, lần thứ hai
II.- Phật gạn hỏi lại tâm lần thứ hai.
III.- Anan chấp cái "Suy nghĩ phân biệt " làm tâm.
IV.- anan cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành, lần thứ ba.
V.- Phật chỉ tâm lần thứ nhứt.
VI.- Phật chỉ cái thấy làm tâm, không phải con mắt .
VII.- Phật chỉ tâm lần thứ hai
VII.- Anan cầu Phật chỉ dạy ở nơi thân này cái nào "chơn" và cái
nào "vọng"
I.- Vua Ba Tư nặc đứng dậy hỏi Phật .
X.- Phật chỉ tâm lần thứ ba
XI.- Phật chỉ "cái thấy" không sanh diệt
Bài
Thứ Tư
I.- A-Nan cầu Phật chỉ cái "điên đảo"
II.- Phật dẫn tỷ dụ để chỉ rõ cái "điên đảo".
III.- Phật chỉ ngay cái"điên đảo".
IV.- Phật dạy: vì mê nên có thế giới và chúng sanh.
V.-A-Nan đã hiểu được chơn tâm song chưa dám nhận.
VI.- Phật chỉ tâm lần thứ tư.
VII.- A-Nan-Nan còn nghi hỏi Phật .
VIII.- Phật chỉ tâm lần thứ năm.
IX.-Phật dạy thêm, cái thấy là tâm chớ không phải vật.
X.-A-Nan nghi cái thấy có lớn, nhỏ, đứt, nối.
XI.-Phật dạy: Trần cảnh có lớn nhỏ, cái thấy không có lớn nhỏ .
Bài
Thứ Năm
I.- A-Nan nghi: nếu "cái thấy" là mình,
thì tâm này là ai?
II.- Cái thấy rời tất cả cái tướng.
III.- Cái thấy tức tất cả các pháp.
IV.- Phật trấn tĩnh đại chúng.
V.- Ngài Văn Thù đứng lên thưa hỏi.
VI.- Phật dạy: Cái thấy không có "thị" và "phi
thị".
VII.- A-Nan nghi: Chơn tâm đồng với thuyết tự nhiên ngoại đạo.
VIII.- Phật bác cái chấp "tâm tự nhiên mà có".
IX.- A-Nan nghi: Tâm do nhơn duyên sanh.
X.- Phật bác cái chấp: "nhơn duyên sanh".
XI.- Phật day: Chơn tâm không thể dùng tâm suy nghĩ hay lời nói luận bàn
được
XII.- A-Nan trở lại nghĩ "nhơn duyên sanh".
XIII.- Phật gạn lại hỏi "cái thấy" để chỉ rõ chơn tâm.
XIV.- Phật chỉ cái "thấy" không phải vọng, song chưa phải là chơn
tâm.
XV.- Phật chỉ tâm lần thứ sáu.
Bài
Thứ Sáu
I.-A-nan không hiểu hỏi Phật
II.- Phật chỉ hai món vọng thấy
III.- Dụ về nghệp chung của cá nhơn .
IV.- Dụ về nghiệp chung của đồng loại
V.- Lấy nghiệp riêng để chỉ rõ nghiệp chung
VI.- Phật chỉ các pháp đều về chơn tâm
VIII.-A-nan ngi cái nghĩa bốn đại hòa hiệp sanh
IX.- Phật quở A-nan học nhiều mà nhiều mà không hiểu
X.- Phật nói cái tánh của bốn đại phi hòa-hiệp
XI.- Đất từ chơn tâm biến hiện
XII.- Lửa từ chơn tâm biến hiện
XIII.- Nước từ chơn tâm biến hiện
XIV.- Gió từ chơn tâm biến hiện
Bài
Thứ Bảy
I-Hư không từ chơn tâm biến thiện
II-Các giác quan từ chơn tâm biến thiện
III-Thức (phân biệt) từ chơn tâm biến thiện
VI-A-Nan ngộ được chơn tâm, đứng dậy phát nguyện rộng lớn.
|
|
|
THAY
LỜI TỰA
Giữa
cơn nắng hạn lại gặp mưa phùn, dang lúc ly loạn, lòng người đau khổ, lại được
cam lồ pháp vị làm cho tâm hồn người bớt sự đau khổ, thì còn may mắn gì
hơn!
Chúng
tôi là cư sĩ của Phật học đường Nam Việt tại chùa Ấn Quang, không biết có phúc
duyên gì, mặc dầu sinh trong đời Mạt pháp, mà vẫn gặp Chánh pháp của Phật Đà.
Trên ba năm nay, chúng tôi thường đến Phật học đường Nam Việt học hỏi về giáo
lý với quý vị Pháp sư. Càng học thấy càng hay; như người ăn mía: càng nhai
lại càng ngọt. Say xưa với đạo vị, mà quên bớt những sự đau khổ giữa lúc loạn
ly.
Càng
học lại thấy giáo lý càng thâm cao. Quý hóa thay! Năm nay chúng tôi được ngài
Thích Thiện Hoa,, trưởng ban hoằng pháp Phật giáo Nam Việt, kiêm Đốc giáo
Phật học đường Nam Việt ban cho một vật báo vô giá: giảng về đại cương kinh
Lăng Nghiêm. Hay làm sao! Và thú vị làm sao! Chúng tôi không thể miêu tả ra
hết được.
Chúng
tôi thường nghe nói: Kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh Đại Thừa, vừa quý giá
nhứt, mà cũng vừa cao siêu nhứt. Trước đây thỉnh thoảng chúng tôi cũng có
thỉnh những bản của các nhà dịch khác để xem, nhưng khó hiểu quá! Ngoài cái
khó về văn chương và danh từ triết lý chuyên môn lại còn nghĩa lý rộng sâu
như biển, thật khó nắm lấy đại cương!
Hôm
nay được nghe giảng Đại cương, thật chẳng khác nào bầu thế giới bao la, mà
được thâu vào một bản đồ nhỏ hẹp, rất dễ ngắm xem.
Chúng
tôi được nghe lời Phật dạy:
"Người
chưa được độ mà muốn độ người đó là tâm Bồ tát; người đã được giác ngộ, rồi
đem ra khai sáng cho người khác là hạnh của Như lai".
Chúng
tôi tự nghĩ rằng: "Mình đã là con của Phật, phải học theo hạnh Bồ tát:
Mỗi khi được điều lợi gì, thì phải đều chia xớt cho mọi người".
Nghĩ
thế, nên chúng tôi yêu cầu Thầy Đốc giáo Phật học đường Nam Việt viết lại
thành bài, và chung cùng nhau in ra phát hành; trong số đó, có ấn tống 1000
quyển (khi lần thứ nhất).
Như
thế, trước để đền đáp Hồng ân của Tam bảo, và công trình giáo huấn của chư
Tăng, sao mong cho mỗi người đọc hiểu, đều ngộ được chân tâm của mình, cùng
chúng tôi đồng tu đồng chứng.
Mong
thay! Vui lắm thay!
Chợ
Lớn ngày 15 tháng 1 năm At Mùi (1955)
T.M Cư Sĩ Phật Học Đường Nam Việt
Phật
Tử MINH PHÚC
Nguồn
TVHS
|
|
|
Bài Thứ Nhất
A.- PHẦN DUYÊN KHỞI
B.- PHẦN CHÁNH ĐỀ
I.- Nguyên nhơn Phật nói kinh
II.- A Nan cầu Phật dạy phương pháp tu hành, lần thứ nhất.
III.- Phần lược giải:
1. Định danh và giải nghĩa tên kinh.
2. Nội dung kinh Lăng Nghiêm
A.- PHẦN DUYÊN KHỞI
Người đến đô thành lạ, nếu chẳng có bản đồ, thì không sao
khỏi lầm đường lạc nẻo. Người đi trong biển khơi diệu-vợi, sóng dồi gió
dập, lênh đênh giữa biển, nếu không có kim chỉ-nam, thì không dễ vượt qua
mấy vạn trùng dương, trở về xứ sở. Người đi đánh giặc, nếu không có binh
thơ đồ trận, không hiểu chiến thuật, chiến lược, thì không sao thắng được
giặc, đem trở lại trật tự an ninh cho nước nhà, và giữ gìn non sông cẩm tú.
Kẽ làm thợ nếu chẳng có mực thước, thì không sao làm thành món đồ có giá
trị được.
Người tu hành cũng thế, nếu không hiểu được lối thắng, khúc
quanh, chỗ đèo ải gay go, nơi hố hầm nguy hiểm trong đường lối tu hành, lớp
lang chứng đạo, thì không sao khỏi lạc vào nẻo tà, sa nơi ác đạo.
Kinh-Lăng-Nghiêm là một bộ kinh quý báu vô cùng, chỉ đường
lối tu hành một cách rành mạch, nào là giáo, lý, hạnh, quả đều rõ ràng.
Người tu phải trải qua bao nhiêu địa vị, trong khi tu gặp những đều nguy
hiểm thế nào, mà phải làm sao mới tránh khỏi những điều nguy-hiểm ấy, thì
trong Kinh-Lăng-Nghiêmdạy hết sức rõ ràng.
Nói đến Kinh-Lăng-Nghiêm, hàng Phật tử ai chẳng nghe tiếng
là một bộ kinh Đại -thừa, vừa hay nhứt, mà cũng vừa quý nhứt. Người tu hành
hiểu được Kinh-Lăng-Nghiêm, chẳng khác nào người bộ hành có bản đồ, kẻ thủy
thủ có kim chỉ nam, người thợ có dây mực, cây thước, kẻ chiến sỹ có binh
thư đồ trận.
Vì Kinh-Lăng-Nghiêm quý giá như thế, nên thuở xưa các vị vua
Ấn Độ cho là một quốc bảo, giữ gìn nghiêm ngặt không cho truyền bá ra
ngoài. Trong lúc ấy bên Tàu, có Ngài Thiên-thai Trí-giả Đại-sư, được nghe
Kinh-Lăng-Nghiêm quý báu như vậy, nên mỗi ngày hai lần sớm chiều xây mặt về
phía Tây (Ấn Độ) quỳ lạy cầu khẩn cho Kinh-Lăng-Nghiêm được sớm truyền bá
qua Tàu, để lợi ích quần-sanh.
Cách 100 năm sau, có Ngài Bát-thích-Mật-Đế , người Ấn Độ, đã
nhiều lần tìm cách đem Kinh-Lăng-Nghiêm đến truyền bá tại Trung Hoa, nhưng
không kết quả, vì luật nước nghiêm cấm, kiểm soát rất chặt chẽ.
Đến lần cuối cùng, Ngài viết kinh trong tấm lụa mỏng, rồi
cuốn lại, xẻ thịt bắp vế nhét vào, băng lại làm như người có ghẻ, mới đem
ra được khỏi nước.
Chúng ta nên nhớ tưởng lại kỳ-công "Vị pháp vong
xu" của Ngài Bát-Thích-Mật-Đế. Thử nghĩ: Một cây cỏ cắt vào da còn
đau; một mụt ghẻ con, còn biết nhức; huống chi xẻ một đường dài nơi bắp
thịt, nhét cho được một cuốn lụa con, trải qua bao nhiêu ngày, từ Ấn Độ
sang đến Trung Hoa. Nếu không may bị tiết lộ thì phải tử hình. Như thế
chúng ta đủ thấy sự quý báu của Kinh-Lăng-Nghiêm là dường nào! Tâm vì đạo
quên mình của Bồ Tát Bát-thích-mật-đế đáng cho chúng sanh trọn đời bái
phục.
Khi Ngài Bát-Thích-Mật-Đế đem Kinh-Lăng-Nghiêm này qua Tàu,
đến đất Nam-thuyên, gặp quan Thừa-tướng tên Phòng-dung, là bực bác học uyên
thâm, lại có lòng mộ Phật, nên Ngài trình bày với Thừa-tướng, về giá trị
của Kinh-Lăng-Nghiêm mà Ngài đã huyền diệu sinh mang đến.
Quan Thừa-tướng Phòng-dung nghe nói rồi hết sức mừng rỡ, cho
là đặng một vật báu chưa từng có. Nhưng khi đem cuốn lụa ra thì, vì bị máu
mũ bám vào lâu ngày, nên mất cả chữ nghĩa.
Một bà có công lớn trong việc này, là Phu-nhân của
Thừa-tướng Phòng-dung. Bà đem cuốn lụa ấy nấu với một chất hóa học, thì máu
mũ đều theo nước mà tan đi, chỉ lưu lại các nét mực, nên còn thấy để phiên
dịch.
Quan Thừa-tướng thỉnh Ngài Bát-Thích-Mật-Đế dịch chữ Phạn ra
chữ Tàu. Ngài Di-Già-Thích-Ca dịch từ ngữ, còn quan Thừa-tướng nhuận-sắc.
Bởi thế nên Kinh-Lăng-Nghiêm chẳng những nghĩa lý rất hay, mà văn chương
còn tuyệt diệu! Từ xưa các học giả, không những trong đạo Phật, mà cả đạo
nho, các đại gia văn chương, một phen xem đến Kinh-Lăng-Nghiêm, đều kính
phục và vô cùng khen ngợi cái nghĩa lý cao siêu, và văn chương tuyệt diệu
của kinh.
B.- PHẦN CHÁNH ĐỀ
I.- NGUYÊN NHÂN PHẬT NÓI KINH LĂNG NGHIÊM
Theo lệ thường, mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, là ngày mãn
hạ, chư Tăng cùng trong tự tứ, để rữa sạch những hành vi lỗi-lầm và những
tư tưởng không tốt, cho giới thể được thanh tịnh, vì trong ba tháng kết hạ
an cư, chư Tăng đều thúc liễm thân tâm, trau giồi giới hạnh , tích công lũy
đức, nên đến ngày mãn hạ, các hành Phật tử cư sĩ đều đua nhau sắm đũ các
món trai diên, thỉnh như tăng đến cúng dường, để gieo trồng cội phúc.
Hôm ấy, nhằm ngày húy nhựt của Tiên-Hoàng, nên vua Ba-Tư-Nặc
sắm đủ các món trân tu mỹ vị rất linh đình, rồi chính vua thân hành đến
rước Phật và chư Tăng về cúng dường.
Cũng hôm ấy, các hàng trưởng giả, cư sĩ đều sắm đủ thức cơm
chay, cung thỉnh chư Tăng đến cúng dường. Phật bảo Ngài Văn-thù chia ban,
để đi đến từng nhà thọ cúng.
Trong lúc ấy, ông A-nan vì đã chịu người thỉnh riêng trước,
nên trở về chẳng kịp để dự vào hàng chúng Tăng thọ cúng .
Ông mang bình bát đi vào thành, oai nghi, tề chỉnh, bộ điệu
chẫm rãi, qua từng nhà một để khất thực. Vơi tâm bình đẳng, ông muốn làm
phước điền cho tất cả mọi người, không phân biệt bậc quý phái hay hạng bình
dân. Ông chỉ mong gặp những người chưa biết làm phước, hôm nay phát tâm
cúng dường, để họ được ương trồng hạt giống lành, dặng ngày sau hưởng
quả.
Vì lòng từ bi bình đẳng không lựa chọn, nên ông tuần tự trải
qua các xóm làng. Không may ông gặp nhà tín-nữ ngoại đạo, tên Ma-Đăng-Già,
dùng phép huyễn thuật là thần chú của Ta-Tỳ-Ca-La Tiên Phạm-thiên, bắt vào
phòng, dùng đủ lời dịu ngọt, vuốt ve mơn trớn, ép uổng về tình
duyên!....
A-nan bị nạn, hết sức buồn rầu! Ông chắp tay niệm Phật,
hướng về Đức Chí-tôn cầu cứu ! ...Phật biết A-nan bị nạn, nên khi thọ trai
xong không kịp thuyết pháp, liền trở về tịnh xá ngồi kiết-già, trên đảnh
phóng hào quang ấy có ngàn cánh, trên hoa sen có đức Hóa Phật ngồi
kiết-già, nói thần chú Lăng-Nghiêm (mỗi buổi khuya các chùa đều tụng)
.
Phật bảo Ngài Văn-thù đem thần chú ấy đi đến chổ nàng
Ma-Đăng-gìa, để phá trừ tà chú, cứu nạn cho A-nan.
II.- A-NAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁT TU HÀNH LẦN THỨ NHỨT
Khi ông A-nan được thoát nạn, về đến chổ Phật, cúi đầu kính
lạy, buồn tủi, khóc than và bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn ! Con từ hồi nào đến giờ có lòng ỷ lại: Con
là em Phật, được Phật thương yêu, chắc chắn Phật sẽ ban cho con thần thông
trí huệ, hay đạo quả Bồ-đề, nên chỉ lo học rộng nghe nhiều, chẳng cần tu
niệm, không ngờ ai tu nấy chứng, mặc dù con là em của Phật, nếu không tu,
thì cũng bị đọa như ai; học nhiều mà không tu, thì cũng chẳng có ích gì!
Cúi xin Phật rộng lòng từ bi, chỉ dạy cho con phương pháp nào mà mười
phương các Đức Phật tu hành đều được thành chứng quả.
III.- PHẦN LƯỢC GIẢI
1.-ĐỊNH NGHĨA VÀ GIẢI NGHĨA TÊN KINH
Khi đó Phật an ủi A-nan và hứa sẽ dạy phương pháp tu hành để
thành đạo chứng quả, là Kinh-Lăng-Nghiêm. Kinh này đọc cho đủ
là: "Kinh đại Phật đảnh, Như-lai mật nhơn, tu chứng liễu nghĩa,
chư Bồ Tát vạn hạnh, Thủ Lăng-Nghiêm"; gọi tắt là "kinh
Thủ-Lăng-Nghiêm" tức là kinh nói về chơn tâm.
a.- Vì kinh này rất quý báu, đã ít có mà lại khó gặp, hàng
Tiểu-thừa Thinh -văn và quyền-thừa Bồ Tát không thể thấu suốt được, nên dụ
như cái tướng "Vô kiết đảnh" của Phật. Vì tướng này rất quý báu
và khó thấy, hạng phàm phu và Nhị-thừa không thể thấy được.
b.- Mười phương các Đức Phật đều y theo kinh này mà làm nhơn
tu địa hành mà được thành đạo chứng quả, nên gọi là "Như lai mật
nhơn".
c.- Y theo kinh này mà tu và chứng thì lối tu chứng ấy mới
được là rốt ráo, nên gọi rằng "tu chứng liễu nghĩa".
d.- Các vị Bồ Tát tu pháp lục độ vạn hạnh đều y theo kinh
này, nên kinh nầy cũng gọi là "Chư Bồ Tát vạn hạnh".
đ.- Tóm lại là "Thủ Lăng Nghiêm", Tàu dịch là
"Đại định kiên cố". Nghĩa là cái bản thể chơn tâm sẳn có của tất
cả chúng sanh và chư Phật, nó bao la trùm khắp cả vũ trụ, nên gọi là
"Đại". Tâm ấy thường tịch tịnh không vọng-động nên gọi rằng
"Định". Nó không bị thời gian thay đổi, hay không gian chuyển
dời, thấu xưa suốt nay, bao giờ cũng vẫn thường như thế, ở nơi bực thánh
không thêm, tại phàm cũng không bớt, như như bất động, nên gọi rằng
"Kiên cố".
Chữ "Kinh" theo nghĩa hẹp là đường chỉ xuôi, tức
là đường canh trong tấm vải. Tấm vải nhờ có đường canh xâu kết lại các chỉ
ngang, mới thành một tấm vải.
Còn theo nghĩa rộng, chữ "kinh" là xâu tóm các lời
lẽ và nghĩa lý của Thánh-hiền làm thành một quyển hay một bộ.
Trong đạo Phật hay ngoài đời đều có kinh điển. Song kinh
Phật có thêm chữ "khế" nên khác hơn kinh sách ở thế gian.
Chữ "khế" nghĩa là hợp:
a.- Hợp căn cơ trình độ của chúng
sanh.
b.- Hợp chân lý.
Chữ kinh có nghĩa "trường
pháp", là một chân lý không thay đổi: quá khứ Phật nói pháp như vậy,
hiện tại Phật cũng nói pháp như vậy và vị lai Phật ra đời cũng nói pháp như
vậy mà thôi, nên gọi là "thường pháp".
Nói một cách xác thật hơn:
"Kinh này chính là tâm của chúng
ta".
a.- Chúng ta sẳn có bản thể chơn tâm
thanh tịnh và như như bất động, thế là nơi ta có "Thủ
Lăng-Nghiêm" .
b.- Y theo chơn tâm này mà khởi tu lục
độ muôn hạnh của Bồ Tát, thì chính là nơi ta có "Chư Bồ Tát vạn
hạnh".
c.- Y theo chơn tâm mà tu, và cũng y
theo chơn tâm này mà chứng, tu chứng như thế mới là rốt ráo, nên gọi là
"tu chứng liễu nghĩa".
d.- Chúng ta y chơn tâm này làm nhân
địa tu hành, sẽ được thành Phật, nên gọi là "Như-lai mật
nhơn".
đ.- Chơn tâm này rất quý báu, những
hàng phàm phu , Tiểu-thừa và quyền thừa Bồ Tát không ngộ nhập được, nên dụ
như "vô kiến đảnh tướng" của Phật. Chơn tâm chúng ta bao trùm cả
vũ trụ, muôn sự muôn vật không ngoài chơn tâm ta, đó là nghĩa chữ
"kinh".
Mười chính chữ đầu đề của kinh này:
"Đại Phật đảnh, Như-lai mật nhơn, tu chứng liễu nghĩa, chư Bồ Tát vạn
hạnh, Thủ Lăng-Nghiêm", đã bao hàm toàn bộ kinh, nào là giáo, lý,
hạnh, quả, thể đại, tướng đại và dụng đại, nhơn địa tu chứng đều trùm cả,
mà rốt cuộc chỉ ở nơi tự tâm chúng ta sẳn đủ. Bởi ngộ được lý này, nên đức
Lục-tổ Huệ-năng nói rằng:
Không ngờ tâm mình vốn sẳn thanh
tịnh
Không ngờ tâm mình vốn không sanh
diệt
Không ngờ tâm mình sẳn đủ các
pháp
Không ngờ tâm mình vốn không lay
động
Không ngờ tâm mình hay sanh muôn pháp.
Đọc đề mục kinh chỉ có 19 chữ, chúng ta
thấy đã vui thú rồi, vì chính nơi ta sẳn có kinh "Đại Phật đảnh,
Như-lai mật nhơn, tu chứng liễu nghĩa, chư Bồ Tát vạn hạnh, thủ
Lăng-Nghiêm". Chỉ vì chúng ta mê muội nên chẳng nhận được kinh Lăng
Nghiêm của mình. Song nó cũng không mất, khi ngộ được thì sẽ thành Phật.
2.- NỘI DUNG KINH LĂNG NGHIÊM
Nội dung của kinh Lăng-Nghiêm là Phật
chỉ dạy cho chúng ta ngộ được chơn tâm. Chúng ta vì không ngộ được chơn tâm
nên phải vĩnh kiếp làm chúng sanh, trầm luân trong biển sanh tử, chịu không
biết bao nhiêu khổ sở. Còn như Phật thoát ly sanh tử luân hồi, được tự do
giải thoát, thần thông tự tại, trí huệ vô ngại v.v....đều do các Ngài đã
ngộ chơn tâm, nên mới được như thế.
Nói cho dể hiểu: Phật với chúng sanh
vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng các Ngài đã hoàn toàn giác ngộ được
thể tánh ấy, nên mới thành Phật. Trái lại, chúng sanh vì mê muội thể tánh
chơn tâm, nên phải bị sanh tử luân hồi. Nếu chúng sanh giác ngộ chơn tâm,
thì sẽ được như Phật.
Ông A-nan cầu Phật chỉ dạy phương pháp
nào mà mười phương các Đức Phật đã tu hành và đều được chứng quả, thì Phật
chỉ dạy, phải ngộ "Chơn tâm" mà thôi. Nếu ngộ được chơn tâm này
thì thành Phật. Không ngộ được chơn tâm, như người còn ngủ chiêm bao. Đây
là phương pháp duy nhứt mà mười phương chư Phật tu hành đã được thành đạo
chứng quả.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ Hai
BẢY ĐOẠN PHẬT HỎI VỀ TÂM
I.- A-nan chấp tâm ở trong thân
II.- A-nan chấp tâm ở ngoài thân
III.- A-nan chấp tâm ẩn trong con mắt
IV.- A-nan chấp lại tâm ở trong thân
V.- A-nan chấp tâm tùy chỗ hòa hợp mà có
VI.- A-nan chấp tâm ở chính giữa
VII.- A-nan chấp "không trước" làm tâm
BẢY ĐOẠN PHẬT HỎI VỀ TÂM
Trước khi muốn chỉ chơn tâm, Phật gạn hỏi cái vọng tâm. Khi
đã hiểu vọng tâm rồi, thì về sau Phật chỉ cái chơn tâm mới khỏi lầm. Cũng
như người, trước phân biệt được thau, đồng và vàng giả rồi, thì về sau chỉ
đến vàng thiệt, họ mới nhận được chắc chắn, nên trước hỏi về cái tâm.
Phật kêu A-Nan hỏi rằng;-trong giáo pháp ta, ông ngưỡng mộ
cái gì mà phát tâm xuất gia?
A-nan thưa: -Vì thấy Phật có 32 tướng tốt đẹp lạ thường, con
sanh lòng hâm mộ và phát tâm xuất gia.
Phật hỏi: -Ông nói:"Vì thấy 32 tướng tốt của Phật ,
sanh lòng hâm mộ"; vậy ông lấy cái gì để thấy, và lấy cái gì để hâm
mộ?
A-Nan thưa: -Con lấy mắt để thấy và dùng tâm hâm mộ.
Phật hỏi:-Ông nói: "lấy con mắt để thấy và cái tâm hâm
mộ",vậy ông có biết cái tâm và con mắt ở chỗ nào không?
Ông từ hồi nào đến giờ, nhiều kiếp sanh tử luân hồi, cũng vì
tâm và mắt! Nếu ông không biết nó ở chỗ nào, thì không bao giờ hàng phục
được phiền não và trần lao.
Cũng như vị quốc vương, bị giặc đến xâm chiếm, đem binh dẹp
trừ, nếu không biết giặc trú ngụ ở chỗ nào thì không bao giờ dẹp được
giặc.
I.-A-NAN CHẤP TÂM TRONG THÂN
A-Nan thưa: -Bạch Thế Tôn, không những một mình con
hiểu, mà tất cả chúng sanh cũng đều cho "con mắt ở trên mặt, còn tâm ở
trong thân". PHẬT BÁC
Phật hỏi: -Ông ngồi trong giảng đường này, trước hết ông
thấy cái gì? Và vì sao ông thấy được cây cối ngoài vườn?
A-Nan thưa: -Bạch thế tôn, con ngồi trong giảng đường, trước
thấy Phật cùng chư tăng, và nhờ mở các cửa, nên con nhìn ra ngoài, thấy
được cây cối, cảnh vật bên ngoài.
Phật hỏi: -Có ai ngồi trong nhà, không thấy các vật trong
nhà, mà lại thấy được cảnh vật bên ngoài không?
A-Nan thưa: -Bạch thế tôn, người ngồi trong nhà, mà không
thấy các vật trong nhà, lại thấy cảnh vật bên ngoài là không có lý.
Phật nói: -Tâm ông cũng thế, nếu thật ở trong thân ông, thì
trước hết nó phải thấy tim, gan, ruột, phổi hoặc móng tay ra, tóc dài, gân
chuyển, mạch động ở trong, rồi sau do mở mắt, ông mới thấy đặng các cảnh
vật bên ngoài. Cũng như người ngồi trong giảng đường này, trước hết phải
thấy Phật cùng chúng tăng và những vật trong giảng đường, rồi sau dòm ra
ngoài, mới thấy núi sông cây rừng v.v...
Vậy có ai trước thấy tim, gan, ruột, phổi ở trong thân, rồi
sau mới thấy các vật ở bên ngoài không ? Nếu không , thì ông nói: "tâm
ở trong thân" là phi lý.
II.- A-NAN CHẤP TÂM Ở NGOÀI THÂN
A nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn, cứ theo lý luận trên thì con
hiểu: Tâm ở ngoài thân. Vì nếu ở trong thân, sao không thấy được các vật ở
bên trong, mà chỉ thấy cảnh vật bên ngoài. Vậy nên con biết tâm ở ngoài
thân. Cũng như cái đèn đốt ngoài nhà, nên chẳng sáng được trong nhà. Nghĩa
này đúng rồi, chắc không còn lầm lạc nữa.
PHẬT BÁC
Phật hỏi Anan: Cái tâm của ông, nếu ở ngoài thân, thì thân
và tâm ông không dính dấp với nhau. Vậy trong lúc tâm biết, thân phải không
biết; còn khi thân biết, thì tâm phải không biết. Cũng như ta với các thầy
Tỳ kheo , vì thân thể khác nhau, nên khi ta thọ trai, các thầy không no
được . Vậy ông thử xem cánh tay của ta đây, trong lúc mắt (thân) ông
vừa thấy, tâm ông có biết liền không?
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, trong lúc con mắt vừa thấy, thì
tâm con liền phân biệt .
Phật hỏi: Nếu mắt ông vừa thấy, tâm ông liền biết, thì thân
ông và tâm không thể rời nhau được . Như thế thì ông nói: "Tâm ở ngoài
thân" cũng không phải.
III.- A-NAN CHẤP TÂM ẨN TRONG CON MẮT
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, theo lời Phật bác: "tâm không
phải ở trong thân, vì nó chẳng thấy được bên trong; cũng không phải ở ngoài
thân, vì mắt vừa thấy, tâm liền biết, rõ ràng tâm thân không rời
nhau".
Cứ theo lý luận này, thì con hiểu: Tâm núp trong con mắt;
cũng như con mắt của người mang kiếng, nên chỉ thấy các cảnh vật bên ngoài,
mà không thấy được vật bên trong.
PHẬT BÁC
Phật hỏi Anan: Nếu tâm con núp trong con mắt, cũng như con
mắt người mang kiếng; vậy tôi hỏi: "Người mang kiến trong khi họ thấy
cảnh vật, họ có thấy được cái kiếng mang đó không?"
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, thấy được .
Phật hỏi: Nếu tâm ông cũng như con mắt người mang kiếng, thì
vậy sao người mang kiếng có thể thấy được cái kiếng mang, còn tâm ông sao
không thấy được con mắt của ông?
Nếu tâm ông thấy được con mắt của ông, thì con mắt của ông
thành ra cảnh bị thấy, nó phải ở ngoài thân ông mới phải.
Nếu thân, tâm ngoài nhau, thì làm sao mắt ông vừa thấy, tâm
ông liền phân biệt được?
Nếu tâm ông không thấy được con mắt của ông, thì sao ông tỷ
dụ như con mắt người mang kiếng?
Thế nên ông nói: "Tâm núp trong con mắt, như con mắt
người mang kiếng núp sau cái kiếng", cũng không phải.
IV.- ÔNG A-NAN CHẤP TRỞ LẠI, TÂM Ở TRONG THÂN
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, bây giờ con nghĩ: Nhắm mắt thấy
tối, là tâm thấy trong thân (gan ruột); nhờ cửu khiếu, thất huyệt (các giác
quan) trống hở, nên mở mắt thấy sáng là tâm thấy các cảnh vật ngoài thân.
Chẳng biết nghĩa này có đúng không?
PHẬT BÁC
Phật hỏi Anan: Ông nói: "Nhắm mắt thấy tối là thấy
trong thân"; vậy thì khi ông thấy tối, cảnh tối đó có đối trước mắt
ông hay không? Nếu cái tối không đối trước mắt ,thì không thành cái
nghĩa thấy. Còn có đối trước mắt, thì thấy tối là thấy trước, sao ông lại
nói thấy trong? Nếu ông cho thấy tối là thấy trong thân (gan ruột) thì
khi ở trong nhà tối không có ánh sáng, ông thấy tối đó, cũng là thấy gan
ruột của ông sao?
Lại nữa, nếu nhắm mắt thấy tối, ông cho là thấy trong thân,
mở mắt thấy sáng là thấy ngoài thân, vậy sao ông không thấy được cái mặt?
Cái mặt ở ngoài, ông mở mắt còn không thấy, thì khi nhắm mắt
thấy tối, làm sao chắc là thấy trong thân? Nếu ông thấy được cái mặt
ông, thì con mắt với tâm hiểu biết của ông, phải ở ngoài thân ông.
Nếu tâm và mắt ở ngoài thân, thì nó không phải là tâm mắt
của ông rồi.
Nếu ông cho tâm,mắt (ngoài thân ông) đó cũng là ông, vậy thì
nay ta thấy được mặt ông, thế thì ta đây cũng là tâm, mắt của ông
sao?
Lại nữa, trong lúc con mắt ông biết, thì thân ông cũng phải
không biết, khi thân ông biết, thì con mắt ông phải không biết (vì ông chấp
nó rời nhau).
Nếu ông cho cả hai đều biết, thì một mình ông phải có hai
cái biết (tâm), vậy khi tu hành chứng quả, ông sẽ thành hai vị Phật
sao?
Thế nên phải biết: Ông nói: "thấy tối là thấy trong
thân" cũng không phải.
V.- A NAN CHẤP TÂM TÙY CHỔ HÒA HIỆP MÀ CÓ.
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, con thường nghe Phật dạy tứ chúng:
"Do tâm sanh, nên các pháp mới sanh. do các pháp sanh, cho nên tâm mới
sanh". nay con suy nghĩ, thì cái "suy nghĩ" đó là tâm của
con; tùy hòa hiệp chổ nào, thì tâm liền theo đó mà có, không phải ở trong,
ngoài và chính giữa.
PHẬT BÁC
Phật hỏi Anan: Ông nói: "tùy hòa hiệp chổ nào, thì tâm
liền theo đó mà có"; như thế thì cái tâm của ông không có thật
thể.
Nếu tâm ông không có hình thể (tức là không có) thì lấy cái
gì mà hòa hiệp? Còn nó có hình thể, thì ông thử lấy tay mặt đánh qua tay
trái, ông liền biết đau. Vậy cái tâm biết đau này, là từ trong thân chạy ra
hay từ bên ngoài chạy vào?
Nếu ông nói: "nó từ trong thân chạy ra", thì
ttrước hết nó phải thấy gan ruột trong thân của ông. Còn nếu nó từ ngoài hư
không chạy vào, thì trước hết nó phải thấy cái mặt của ông.
A-Nan thưa: Con mắt thì thấy, còn cái tâm thì biết; Phật
nói: "cái tâm thấy", nghĩa đó không phải.
Phật hỏi: Nếu con mắt thấy thì những người chết, con mắt vẫn
còn, sao họ không thất vậy?
Nếu người chết, mà vẫn còn thấy vật, thì sao gọi là người
chết?
Lại nữa, nếu cái tâm hiểu biết của ông có thật thể, thì có
một thể hay nhiều thể, ở khắp cả thân ông, hay không khắp cả thân?
Nếu tâm ông có một thể, và ở khắp cả thân, thì khi ông lấy
tay đánh thử một chổ trên thân ông, đáng lẽ ra thân đều biết đau hết, vì
tâm ở khắp cả thân và đồng một thể. Nếu cả thân đều biết đau, thì cái
đau đó lẽ ra không có ở nhứt định chổ nào. Nếu cái đau có chổ ở nhứt
định, thì ông nói: "cái tâm một thể và ở khắp cả thân" cũng không
phải. Còn nói "tâm ông có nhiều thể", thì thành ra nhiều người;
vậy cái nào tâm của ông?
Nếu tâm ông không ở khắp thân thể, vậy ông đồng thời vừa
đụng trên đầu, và cũng vừa đụng dưới chân, khi ấy nếu đầu biết đau, thì
chân phải không biết, còn chân biết đau, thì đầu phải không biết.
Nhưng thật tế thì, đầu và chân của ông cả hai đều biết
đau.
Thế nên ông nói: "tùy hòa hiệp chổ nào, thì tâm tùy
theo đó mà có", cũng không phải .
VI.- A-NAN CHẤP TÂM Ở CHÍNH GIỮA
Anan bạch Phật: Con nghe Phật cùng với ngài Văn Thù...khi
luận về "thật tướng" (chơn tâm), Phật dạy rằng: "Tâm chẳng ở
trong và cũng chẳng ở ngoài ".
Nay con suy nghĩ: Nếu tâm ở trong thân, sao chăng biết được bên
trong? Còn nói tâm ở ngoài , thì sao tâm lại biết nhau? Như thế thì
"tâm" chắc ở chính giữa.
PHẬT BÁC
Phật hỏi: Ông nói "Tâm ở chính giữa", vậy cái
"chính giữa"; còn ở chính giữa thân, thì đồng thời với ở trong
thân, như đã nói trước. Nghĩa là: tâm phải thấy trước tim, gan, ruột, phổi
ở bên trong .
Còn như ở về cảnh, thì có thể nêu (cái giữa) ra được , hay
không nêu ra được?
Nếu không nêu ra được , thì đồng như không có; còn nếu ra
được , thì không thể nhứt định chổ nào là chính giữa. Vì sao? Như
người lấy cái cắm chính giữa, nếu người ở phía đông thì xem thấy cây ấy cắm
ở phía tây; còn người ở phía nam, thì xem thấy cây ở phía bắc.
Cái cây cắm nêu đó đã không nhứt định chổ nào là chính giữa,
thì cái tâm của ông cũng phải lôn lạo không định.
A-Nan thưa: con nói "chính giữa" không phải hai
chổ ấy. Như Phật thường nói: "con mắt đối với sắc trần, sanh ra nhãn
thức". Một bên con mắt thì có phân biệt, một bên sắc trần lại không
phân biệt , cái thức sanh chính giữa, đó là chổ của tâm ở.
Phật hỏi: Ông nói: "Tâm ông sanh chính giữa căn và trần
cảnh" hay không gồm cả hai .
Nếu gồm cả hai, thì căn với cảnh lộn lạo (căn không thành
căn, cảnh không thành cảnh; vì vừa biết mà cũng là không biết). Song trần
cảnh thì không có tri giác, còn căn lại có tri giác, hai bên đối lập riêng
khác, vậy lấy chổ nào làm giữa.
Còn như không gồm cả căn và cảnh, thì tâm không thật thể.
Vậy lấy cái gig làm chính giữa?
Thế nên phải biết: Ông nói " tâm ở chính giữa"
cũng không phải.
VII.- ANAN CHẤP CÁI "KHÔNG TRƯỚC" LÀM TÂM
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, ngày trước con thấy khi Phật cùng
với ông Đại Mục Kiền Liên. Tu Bồ đề v.v...nói pháp, Phật có dạy rằng:
"Cái tâm hiểu biết phân biệt, không ở trong thân, không
ở ngoài thân, không ở chính giữa, không ở chổ nào cả; "không dính mắc
(vô trước) tất cả" đó gọi là tâm ".
Vậy nay con lấy cái "không dính mắc" đó làm tâm,
chẳng biết có hay được không?
PHẬT BÁC
Phật hỏi: -Ông nói: lấy cái "không dính mắc tất
cả" làm tâm. Vậy tôi hỏi ông: tất cả các vật tượng trong thế gian này,
nào là hư-không, thế-giới v.v...Vậy các vật tượng ấy có mà ông không dính
mắc (trước) hay là không, mà ông không dính mắc?
Nếu các vật tượng ấy không có, thì cũng như lông rùa, sừng
thỏ: nó đã không, thời có gì mà dính mắc.
Nếu còn có cái "không dính mắc" thì ông không thể
nói rằng "không dính mắc được". Vì cái gì không có hình tướng thì
không, còn cái gì có hình tướng là có. Nếu có hình tướng thì phải bị
"dính mắc".
Thế nên ông nói: "không dính mắc tất cả làm tâm"
cũng không phải.
LƯỢC GIẢI
Đã bảy lần Phật gạn vể tâm, ông Anan đều nói không trúng.
Vậy nên biết: Nếu chưa ngộ được thể tánh chơn tâm, thì dù cho nói cách nào
cũng sai cả. Chẳng khác nào như trong Nhiếp Đại Thừa luận có cái dụ:
"kẻ mù rờ voi". Người rờ nhầm cái chân thì nói con voi như cột
nhà, người rờ nhằm lỗ tai, thì nói voi như ki hốt rác, người rờ nhằm đuôi,
thì nói voi như cây chổi quét nhà v.v...mặc dù rờ trúng, nhưng nói và nghĩ
thế nào cũng sai cả. Phải thấy chơn tướng của con voi, thì nói mới không
sai.
Chúng ta cũng nên lưu ý; trong kinh này, ngài Anan đại diện
cho chúng sanh mê lầm hiện tại, cũng như tương lai mà đứng ra thưa
hỏi.
Có những đoạn ngài trình bày hoặc thưa hỏi rất thấp, là đại
diện cho những chúng sanh mê lầm bực hạ căn. Có những đoạn Ngài trình bày
hoặc thưa hỏi thâm thúy, là đại diện, cho những chúng sanh căn tánh bực
thượng. Vậy chúng ta không nên căn cứ lời trình bày trên mặt văn tự mà phê
phán trình độ của Ngài.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ Ba
I.- Anan cầu Phật dạy phương pháp tu hành, lần thứ hai
II.- Phật gạn hỏi lại tâm lần thứ hai.
III.- Anan chấp cái "Suy nghĩ phân biệt " làm tâm.
IV.- Anan cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành, lần thứ ba.
V.- Phật chỉ tâm lần thứ nhứt.
VI.- Phật chỉ cái thấy làm tâm, không phải con mắt .
VII.- Phật chỉ tâm lần thứ hai
VIII.- Anan cầu Phật chỉ dạy ở nơi thân này cái nào "chơn" và cái
nào "vọng"
IX.- Vua Ba Tư nặc đứng dậy hỏi Phật .
X.- Phật chỉ tâm lần thứ ba
XI.- Phật chỉ "cái thấy" không sanh diệt
I.- ANAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ HAI.
Ông Anan đã bảy lần chỉ tâm đều không trúng, vì ông chấp
vọng tưởng là tâm, nên bị Phật bác cả, lần thứ hai ông đứng dậy chắp tay
kính lạy, cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành để thoát ly sanh tử luân
hồi.
Anan thưa rằng: -Bạch Thế Tôn ! Con là em Phật, tuy đã xuất
gia, mà vẫn còn ỷ lại lòng thương yêu của Phật chỉ lo học rộng nghe nhiều,
không chuyên tu niệm, nên không chứng được đạo quả, chẳng hàng phục nổi tà
chú của ngoại dạo Ta-Tỳ-Ca-La; trái lại, còn bị Ma Đăng Già bắt vào phòng
dâm...phải nhờ Phật cứu độ. Vậy cúi xin Phật từ bi chỉ dạy cho con phương
pháp tu hành, để phá trừ ác kiến và chứng thành đạo quả.
Thưa thỉnh xong, Anan và đại chúng kính cẩn và trông chờ lời
Phật chỉ dạy.
II.- PHẬT GẠN HỎI TÂM LẦN THỨ HAI.
Lúc bấy giờ Phật gạn hỏi lại cái "tâm" lần thứ
hai, và bảo ông Anan phải phân biệt rành rõ cái nào là chơn tâm, và cái nào
là vọng tâm.
Phật dạy: Ông nay muốn đặng đạo vô thượng Bồ đề, thì điều
cần nhứt là phải hiểu rõ hai món căn bản:
Một căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm.
Một căn bản của Bồ đề, Niết bàn, là chơn tâm.
Nếu ông nhận lầm căn bản của sanh tử (vọng tâm) làm nhơn tu
hành, thì không bao giờ giải thoát được. Cũng như người nhận giặc làm con, thì
chỉ thêm bị phá hoại gia sản của mình mà thôi. Và cũng như người nấu cát
làm cơm, dầu trải bao nhiêu năm cũng chẳng thành cơm được.
Vậy nay ông muốn biết đường lối tu hành để ra khỏi sanh tử
luân hồi, thì ông hãy nghe tôi hỏi đây:
Phật liền đưa bàn tay, co lại năm ngón và hỏi ông Anan rằng:
Ông có thấy không?
A-nan đáp: Bạch Thế Tôn, thấy.
Phật hỏi: -Ông thấy cái gì?
Anan đáp: Con thấy Phật đưa bàn tay co năm ngón lại.
Phật hỏi: Ông lấy cái gì để thấy và lấy cái gì làm tâm?
III.- ANAN CHẤP CÁI "SUY NGHĨ PHÂN BIỆT" LÀM
TÂM
Anan thưa: con lấy "mắt" để thấy và cái "biết
suy nghĩ phân biệt" làm tâm .
Phật quở: Dốt lắm, Anan ! cái đó không phải là tâm của
ông.
LƯỢC GIẢI
Chúng ta nên lưu ý: Thông thường ai cũng đều cho cái
"suy nghĩ phân biệt" là tâm của mình, mà Phật lại nói "không
phải tâm". Vậy chúng ta cần phải chính chắn suy xét chổ đó.
* * *
Anan hoảng hốt, đứng dậy thưa Phật: Bạch Thế Tôn, cái
"suy nghĩ, phân biệt" này, nếu không phải là tâm của con thì gọi
nó là cái gì?
Phật dạy: nó là "vọng tưởng" (vọng tâm) . bởi các
ông từ hồi nào đến giờ, lầm nhận "vọng tưởng" làm "chơn
tâm", cho nên nhiều kiếp trầm luân. Như người nhận giặc làm con, nên
bị giặc phá hại.
Anan thưa: Bạch Thế Tôn, con vì thương Phật nên mới xuất
gia, thì con mới dùng cái tâm này mà thương Phật. Con phụng thờ các đức
Phật trong mười phương và làm tất cả các điều công đức, cũng dùng cái tâm
này. Dầu cho con có làm các điều tội lỗi, hủy báng Phật pháp, đọa vào đại
ngục đi nữa, thì con cũng dùng cái tâm này. Ngày hôm nay Phật nói
"nó" không phải tâm của con, như thế thành như con không có tâm;
nếu không có tâm, thì con đồng như cây, đá rồi ! Cúi xin đức Thế tôn từ bi
chỉ giáo.
Phật dạy rằng: này Anan nếu ông chấp cái "suy nghĩ,
phân biệt" là tâm của ông, thì khi rời cảnh vật hiện tiền, cái tâm
"hiểu biết, phân biệt" ấy, cũng vẫn còn, thế mới phải là tâm của
ông. Nếu rời cảnh vật hiện tiền, mà tâm hiểu biết phân biệt ấy mất đi, thì
không phải là chơn tâm của ông rồi.
Dầu cho ông diệt hết năm tri giác bên ngoài là thấy, nghe,
hay, biết (năm giác quan), chỉ còn lưu lại cái "thầm thầm phân
biệt" bên trong (thức thứ sáu) thì đó cũng là cái vọng tưởng phân biệt
(ý thức thứ sáu) bóng dáng pháp trần không phải là chơn tâm của ông.
Này A-nan, tôi không bắt buộc ông phải chấp cái "suy
nghĩ phân biệt" đó là không phải tâm của ông; tôi chỉ bảo ông nên
chính chắn suy xét: nếu rời cảnh vật hiện tiền, mà cái "suy nghĩ phân
biệt" này vẫn còn, thì mới phải thật là chơn tâm của ông.
Còn nếu rời khỏi cảnh vật hiện tiền, mà cái "suy nghĩ
phân biệt" này cũng mất luôn đi, thì rõ ràng nó là cái "vọng
tưởng phân biệt " (vọng tâm) bóng dáng của sáu trần, chớ không phải là
"chân tâm thường trụ" của ông vậy.
Nếu ông nhận cái "hư vọng phân biệt sanh diệt"
(vọng tưởng) này làm tâm của ông, thì khi cảnh vật hiện tiền qua rồi, tâm
ấy cũng theo cảnh vật mà diệt đi. Lúc ấy thành ra ông không có tâm rồi. Nếu
không có tâm, thì ông lấy cái gì để tu hành, và thành đạo chứng quả.
Ông phải biết rằng: trong thế gian tất cả người tu hành,
không được thành đạo, đều do chấp lầm cái "vọng tưởng sanh diệt"
(vọng tâm) này làm chân thật (chơn tâm).
Chính ông ngày nay cũng thế, nên tuy học nhiều mà không được
quả Thánh.
IV.- A-NAN CẦU PHẬT CHỈ DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ
BA.
Anan cùng Đại chúng, nghe Phật nói như vậy, đều ngẫn ngơ và
im lặng.
Lúc bấy giờ ông A-nan cúi đầu lạy Phật, quỳ gối chắp tay vừa
khóc lóc, vừa bạch Phật rằng: Con từ khi xuất gia theo Phật đến nay, vì ỷ
lại là em của Phật, tin chắc sẽ nhờ oai thần Phật ban cho đạo quả, chẳng
cần tu tánh cực nhọc; không ngờ ai tu lấy chứng, không thể thay thế cho
nhau được.
Hôm nay con mất "bản tâm" đi rồi thân tuy xuất gia
mà tâm chẳng vào đạo, chẳng khác nào đứa cùng tử bỏ cha trốn đi.
Nay con mới biết học nhiều mà không tu cũng như người không
học mà cũng như người nói đến đủ các thức ăn, rốt cuộc trong bụng vẫn
đói.
Bạch Thế Tôn, chúng con vì hai chứng phiền não và sở tri
ràng buộc, nên không ngộ được chơn tâm. Cúi xin đức Thế Tôn thương xót kẻ
bần cùng, chỉ dạy cho con phương pháp tu hành, để phát minh được tâm tánh.
V.- PHẬT CHỈ CÁI "THẤY" THƯỜNG CÒN
Khi ấy Phật kêu Anan , dạy rằng: -Vừa rồi ông nói "thấy
năm ngón tay của ta con mắt nắm lại". Vậy thì sao có nắm tay? Và nhờ
cái gì mà có cái thấy?
A-nan thưa: -Bạch Thế Tôn, nhơn bàn tay của Phật co lại năm
ngón, nên mới có nắm tay, và nhờ con mắt cho nên mới có cái thấy.
Phật hỏi: Vậy thì "không bàn tay chẳng có ngón tay,
cũng như không con mắt thời chẳng có cái thấy "; so sánh như thế có
đúng không?
A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, đúng.
Phật dạy: Không đúng hẳn! Không bàn tay thì không có nắm tay
thì phải, không con mắt chẳng phải cái "thấy" không
có.
Ông nên ra ngoài đường hỏi những người mù mắt: "các
người có thấy gì không?", thì họ đều trả lời với ông rằng: "Chỉ
thấy tối đen". Như thế thì rõ ràng: Người mù không có con mắt, mà cái
"thấy" cũng vẫn còn.
Đây là cái bằng chứng: Mặc dù con mắt không có, và trần cảnh
đối trước có tối và sáng khác nhau, nhưng cái thấy lúc nào cũng có (nói cái
thấy là đại diện cho năm giác quan).
A-nan thư: Người mù thấy tối, thì sao gọi là thấy
được?
VI.- PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ NHỨT
Phật hỏi A-nan: Người sáng mắt ở trong nhà tối thấy tối,
cùng với người mù mắt thấy tối, vậy hai cái tối đó có khác nhau
không?
A-nan thưa: -Bạch Thế Tôn ! không khác.
Phật hỏi nữa: Trong nhà tối thấy tối, nếu có người đem đèn
vào, họ thấy được các vật, vậy cái đèn thấy hay con mắt thấy?
A-nan thưa: Mắt thấy chớ không phải đèn thấy.
Phật dạy: Cũng thế, người mù mắt khi lột mây rồi, thấy được
cái cảnh vật, đó là tâm thấy chớ không phải mắt thấy.
Phật dạy tiếp: -Cái đèn chỉ làm cho sáng các vật, còn cái
thấy là con mắt (dụ cho tâm) chớ không phải đèn (dụ con mắt ). Lên một tầng
nữa: con mắt chỉ làm cho tỏ rõ các vật, còn cái thấy là tâm, chớ không phải
con mắt (đây là lần thứ nhứt Phật chỉ tâm ).
A-nan và đại chúng nghe Phật giảng dạy như thế rồi, đều im
lặng, nhưng trong tâm thật chưa hiểu, nên đều kính cẩn chắp tay, để chờ
Phật chỉ dạy thêm.
LƯỢC GIẢI
Trong đoạn này, xin nói thêm tỷ dụ này cho dể hiểu: Con mắt
của người cũng như bóng đèn điện, còn cái "thấy" của người cũng
như điện. Khi dây đứt (dụ dây thần kinh đứt) bóng hư (dụ mắt mù) thì đèn
không cháy, chớ không phải điện mất (không cái thấy ). Đến khi thay bóng
mới nối dây lại, thì điện cháy trở lại không phải do bóng hay do dây mới có
điện.
Cái "thấy" của người cũng thế: khi mắt bị mây che
thì chỉ thấy tối, chớ không phải cái "thấy" mất, đến khi lột mây
rồi, thì cái "thấy" hiện ra, không phải do con mắt mới có cái
thấy. Đoạn này Phật chỉ rõ cái "thấy" là tâm.
* * *
VII.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ HAI
Khi đó Phật đưa bàn tay lên, năm ngón co lại rồi mở ra và
hỏi ông A nan:-Ông có thấy cái gì không?
A -nan thưa:-Thấy Phật đưa tay lên co vào rồi mở ra.
Phật hỏi: Tự cái tay của ta co mở, hay "cái thấy"
của ông co mở?
A-Nan thưa:- Tự tay Phật co mở, chứ "cái thấy" của
con không co mở.
Phật khen: Phải lắm.
Phật lại phóng một đạo hào quang trên vai phía mặt của A
nan: A-Nan liền xoay đầu ngó về phía bên mặt. Phật lại phóng hào quang trên
vai phía trái của A-Nan; A-Nan xoay đầu ngó qua phía trái.
Phật hỏi: Cái đầu của ông hôm nay tại sao xoay qua lắc lại
như vậy?
A-Nan thưa: vì Phật phóng hào quang trên hai vai của con,
nên con xoay qua lắc lại để xem.
Phật hỏi: Vậy cái đầu của ông lắc, hay cái thấy của ông
lắc?
A-Nan thưa: tự cái đầu con xoay qua lắc lại, chớ cái thấy
của con không có xoay lắc.
Phật hỏi: -Cái nào động, cái nào tịnh?
A-Nan thưa:- Cái đầu của con có động và tịnh (dừng) chứ cái
thấy của con không có động và tịnh.
Phật nói: Phải
Phật dạy tiếp:- Cái nào có co, có mở, có động, có tịnh, có
sanh, có diệt, thì cái đó là vọng, thuộc về "khách" không phải
ông. Còn cái nào không động tịnh, co mở, không sanh diệt, thì cái đó là
"chơn", thuộc về "chủ" chính là ông. Như thế chơn và
vọng rất rõ ràng, ông còn chưa hiểu hay sao!
Tại sao từ hồi nào đến giờ, các ông cứ nhận cái vọng-thân tứ
đại giả hợp này, cho là thật "thân" của mình; cái vọng trưởng
sanh-diệt này, cho là thật "tâm" của mình; cảnh vật giả tạm, cho
là thật "cảnh" cảnh của mình, mà lại bỏ cái chơn tâm thường còn
bất sanh bất diệt của mình sẳn có kia đi? Bởi thế nên các ông phải nhiều
kiếp sanh tử luân hồi, thật là rất oan uổng!
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật chỉ cái "thấy" không co mở, và không
sanh, diêt, động, tịnh, đó là chơn tâm lưu lộ.
* * *
VIII.-A NAN CẦU PHẬT CHỈ DẠY Ở NƠI THÂN NÀY CÁI NÀO
"CHƠN", CÁI NÀO "VỌNG".
Khi ấy A-Nan và đại chúng được nghe Phật tạm chỉ "cái
thấy không động tịnh co mở là Tâm", nên tất cả đều hớn hở vui mừng, và
nghĩ rằng: Từ vô thỉ đến nay, tự mình làm mất bản tâm, nhận cái vọng tưởng
phân biệt theo bóng dáng của trần cảnh làm tâm, ngày hôm nay mới ngộ được
Tâm mình, nên hết sức vui mừng. Cũng như đứa con nhỏ khát sữa đã lâu, nay
được gặp bà từ mẫu, nên ông và đại chúng cầu Phật chỉ rõ ở nơi thân thân
tâm hiện tiền đây, cái nào chơn thật không sanh diệt và cái nào hư vọng có
sanh diệt.
IX.-VUA BA TƯ NẶC ĐỨNG DẬY HỎI TIẾP
Khi ấy vua Ba-tư nặc đứng dậy thưa Phật:-Bạch Thế Tôn, lúc
trước chưa thọ giáo với Phật , con nghe phái ngoại- đạo Ca chiên diên và Tỳ
la chi tử đều nói:"Thân này sau khi chết rồi mất hẳn, gọi là Niết
bàn".
Hôm nay con tuy được Phật chỉ dạy, nhưng vẫn còn hồ nghi:
làm sao biết rõ và chứng chắc cái tâm này không sanh diệt. Xin Phật từ bi
chỉ dạy cho chúng con.
X.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ BA
Phật hỏi:-Đại vương! Cái thân của ông hiện tại đây, nó bền
chắc như ngọc kim cương, còn mãi không hư họai, hay là phải hoại
diệt?
Vua đáp:- Bạch thế tôn, thân con ngày nay đây, rốt cuộc rồi
cũng bị hoại diệt.
Phật hỏi:-Ông chưa chết, làm sao biết nó sẽ bị họai
diệt?
Vua đáp:- Bạch thế tôn, cái thân vô thường của con đây, tuy
chưa chết, nhưng hiện tiền nó đã tàn tạ dần, ngày qua, rồi lại ngày qua!
Mỗi niệm qua, qua từ sát na (tíc- tắc) không dừng!...cũng như củi đốt thành
tro, cháy dần cho đến lúc tiêu tan! Vì thế nên con biết, thân này nhứt định
sẽ tiêu diệt.
Phật nói:- phải!
Phật lại hỏi:-Đại vương! Thân thể ông đâu phải tiêu diệt
liền bây giờ?
Vua đáp:- bạch thế tôn, ngày qua tháng lại, hết hạ đến đông,
nó thầm già chết, cho đến ngày nay, đầu bạc răng rụng, chân lỏng gối dùn,
mắt mờ tai lảng, già nua đến thế này, mà con thật không hay không
biết!
Bạch thế tôn, khi con hai mươi tuổi, tuy nói rằng tuổi trẻ,
thật ra nhan sắc đã già hơn khi mười tuổi. Khi ba mươi tuổi lại già hơn khi
hai mươi tuổi. Cho đến ngày nay, sáu mươi hai tuổi, lại già hơn khi năm
mươi tuổi.
Nó âm thầm già chết, lấy trong khỏang thời gian mười năm mà
nói như vậy. Nếu chín chắn suy nghĩ, thì cái già, chết này, không phải hạn
định trong khoảng mười năm hay hai mươi năm, mà thật ra, mà nó già từng
năm, từng tháng, từng ngày. Nếu suy nghĩ kỷ hơn nữa, thì nó gìa, chết từng
phút, từng giây và từng sát na (tíc tắc)! Năm nay già hơn năm rồi, tháng
này già hơn tháng trước, ngày hôm nay già hơn ngày hôm qua, giờ này già hơn
giờ trước. Phút này già hơn phút trước, cho đến sát na này cũng già hơn sát
na trước. Thế nên con biết, thân này rốt cuộc rồi cũng tiêu diệt.
LƯỢC GIẢI
Cũng như cái đồng hồ, vì có chạy từng giây, cho nên mới qua
từng phút. Bởi có đi từng phút, nên mới chỉ đến từng giờ, và ngày
v.v...thân này già chết cũng thế.
* * *
Phật hỏi:-Đai vương ! Ông thấy cái thân thể của ông âm thầm
già chết như thế, nên ông lo buồn; vậy ở nơi thân thể sanh diệt, già chết
này, ông có biết được cái gì chẳng sanh diệt già chết không?
Vua Ba Tư Nặc chắp tay cung kính thưa:-Bạch thế tôn, con
thật không biết?
XI.-PHẬT CHỈ CÁI "THẤY" KHÔNG SANH DIỆT
Phật dạy rằng: -Tôi nay chỉ cho ông thấy cái không sanh
diệt.
Này đại vương, khi ông mấy tuổi mới thấy được nước sông
hằng?
Vua đáp:- Khi lên ba tuổi, con được mẹ bồng đến yết kiến
thành Tỳ bà thiên (thành trường thọ) đi ngang qua sông này , nên lúc bấy
giờ , con đã thấy được sông hằng.
Phật hỏi: -Hôm nay ông thấy sông hằng, vậy cái
"thấy" đó là khác không?
Vua thưa:- Khi con ba tuổi thấy sông hằng, đến lúc ba mươi
tuổi và nay được sáu mươi hai tuổi thấy sông hằng cũng đều không
khác.
Phật dạy: Ngày nay ông lo buồn cho thân ông già yếu, đầu bạc
mặt nhăn, không được như lúc còn trẻ. Vậy nay sáu mươi hai tuổi ,ông xem
thấy sông hằng, cùng với khi còn trẻ thấy sông Hằng, cái "thấy"
đó có già trẻ chi không?
Vua Ba tư nặc thưa: bạch thế tôn , cái "thấy"
không có già trẻ.
Phật dạy, này Đại vương thân thể mặt mày ông tuy già, vậy
cái nào có già, thì cái ấy sẽ bị biến đổi ,tiêu diệt; còn cái nào không
già, thì cái đó không bị biến đổi tiêu diệt. Nó đã không sanh diệt, thì đâu
có bị ông làm cho nó sanh tử luân hồi được. Rõ ràng như thế, ông không hiểu
sao mà còn dẫn lời của ngoại đạo Mạt-già -Lê nói: thân này chết rồi hoàn
toàn diệt mất?
Vua cùng đai chúng nghe Phật dạy rồi, đều biết rằng: người
chết rồi, là tâm bỏ thân này thọ thân khác, không phải mất hẳn. Ai nấy đều
hớn hở vui mừng vì đặng lợi ích chưa từng có.
LƯỢC GIẢI
Đọan này Phật chỉ thấy không già trẻ, sanh diệt đó là
Tâm
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ Tư
I.- A-Nan cầu Phật chỉ cái "điên đảo"
II.- Phật dẫn tỷ dụ để chỉ rõ cái "điên đảo".
III.- Phật chỉ ngay cái "điên đảo".
IV.- Phật dạy: Vì mê nên có thế giới và chúng sanh.
V.-A-Nan đã hiểu được chơn tâm song chưa dám nhận.
VI.- Phật chỉ tâm lần thứ tư.
VII.- A-Nan-Nan còn nghi hỏi Phật .
VIII.- Phật chỉ tâm lần thứ năm.
IX.-Phật dạy thêm, cái thấy là tâm chớ không phải vật.
X.-A-Nan nghi cái thấy có lớn, nhỏ, đứt, nối.
XI.-Phật dạy: Trần cảnh có lớn nhỏ, cái thấy không có lớn nhỏ
I.-A-NAN CẦU PHẬT CHỈ CÁI "ĐIÊN- ĐẢO".
Khi ấy A-Nan đứng dậy lạy Phật, kính cẩn bạch rằng:
Nếu cái thấy, nghe, không sanh diệt này là "Tâm"
của chúng con, tại sao trước kia đức Thế Tôn lại quở chúng con "bỏ mất
chơn tâm, làm việc điên đảo"?
Cúi xin đức Như Lai mở rộng lòng từ bi hoan hỉ dạy cho chúng
con biết cái "Điên đảo" ở chỗ nào.
II.-PHẬT DẪN TỶ DỤ ĐỂ CHỈ RÕ CÁI "ĐIÊN
ĐẢO".
Khi đó Phật xuôi cánh tay chỉ xuống đất, hỏi ông A-Nan
rằng:
Ông thấy cánh tay của ta như thế này, là xuôi hay
ngược?
A-Nan thưa: -Các người trong thế gian cho như thế là ngược;
còn con thì không biết là ngược hay xuôi.
Phật lại hỏi ông A-Nan: -Các người trong thế gian cho như
thế là ngược, thì họ cho như thế nào mới là xuôi?
A-Nan thưa: -Đức Như Lai đưa cánh tay lên, năm ngón chỉ
thẳng lên hư không, như thế là xuôi.
Phật liền đưa tay lên, rồi kêu A-Nan mà bảo rằng: - Cũng một
cánh tay này chứ không chi khác, chẳng qua chỉ đổi đầu làm đuôi, đổi đuôi
làm đầu mà thôi, thế mà người thế gian, chấp thế này là ngược và thế kia là
xuôi; điên đảo là đấy! Đấy là điên đảo.
Đem một cánh tay này mà so sánh, để chỉ rõ thêm ra: Thân Như
Lai gọi là thân Phật (giác ngộ), thân các ông gọi là thân điên đảo (chúng
sanh). Vậy ông nên chín chắn xem xét: thân ông và thân Phật, cái "Điên
đảo" (chúng sanh) ở chỗ nào?
LƯỢC GIẢI
Ý Phật chỉ: Đồng một thể tánh chơn tâm, vì vô minh
vọng động, chấp đây thật là Phật , kia thật là chúng sanh. Đó là "điên
đảo".
III.-PHẬT CHỈ NGAY CÁI "ĐIÊN- ĐẢO"
Khi ấy A-Nan và đại chúng ngó Phật sửng sốt, đôi mắt không
nháy, vì không biết ở nơi thân này và tâm này, cái "điên đảo" ở
chỗ nào!
Phật thấy vậy thương xót mới dạy tiếp:
Ta thường nói: "Các pháp đều duy tâm biến hiện, cho đến
thân và tâm ông ngày nay, cũng đều là vật ở trong chơn tâm hiện ra".
Tại sao các ông lại bỏ cái bản thể chơn tâm đi. Các ông vẫn ở trong ngộ
(chơn tâm) làm mình (điên đảo là đó), thật đáng buồn thương!
IV.-PHẬT DẠY: VÌ MÊ NÊN CÓ THẾ -GIỚI VÀ CHÚNG- SANH.
-Này A-Nan, bởi vô minh vọng động nên biến hiện ra có hư
không, thế giới và chúng sanh. Trong thân chúng sanh vì có vọng tưởng lẫn
lộn, nên nó vọng động leo chuyền bên trong (như vượn, như ngựa); khi các
giác quan mở ra, thì nó rong ruổi theo trần cảnh bên ngoài (như vượn sút
xiềng, ngựa tông chuồng). Rồi các ông chấp cái tướng vọng tưởng lăng xăng
bên trong đó, cho là tâm tánh của mình. Một phen chấp nó làm tâm, thì không
sao khỏi mê lầm cho rằng "tâm ở trong thân".
Chứ đâu biết rằng: thân này, tâm này, cho đến núi, sông, thế
giới và hư không đều là vật trong chơn tâm hiện ra cả.
LƯỢC GIẢI
Như người đương thức (dụ chơn tâm) bổng chốc buồn ngủ (dụ vô
minh). Khi ngủ chiêm bao thấy có hư không, thế giới, chúng sanh và mình (dụ
vô minh sanh ra thế giới và chúng sanh), rồi chấp cái thân và tâm trong
chiêm bao kia là mình, mà bỏ cả cảnh thức tỉnh rộng lớn này đi v.v...(dụ
như vì mê muội nên nhận cái vọng thân vọng tâm này làm minh, cảnh này là
thật, mà bỏ cái toàn thể chơn tâm sáng suốt rộng lớn kia).
*
Cái chơn tâm rộng lớn như vậy, các ông lại bỏ đi không nhận,
trỡ lại chấp cái vọng thân, vọng tâm này cho là thật của mình. Cũng như
toàn thể bể cả rộng khơi trong trẻo kia không nhận, trở lại chấp hòn bọt
nhỏ nhen cho là toàn thể bể cả, thật là điên đảo! Các ông là một trong vô
số người mê muội, thật đáng thương xót !
Như, cũng một cánh tay của ta, mà chầp thế này là ngược, thế
kia là xuôi, cũng đồng một loại điên đảo!
V.- A-NAN ĐÃ HIỂU ĐƯỢC "CHƠN TÂM" SONG CHƯA DÁM
NHẬN.
Ông A-Nan vì thấy lòng từ bi tha thiết của Phật thương xót
hết sức nồng hậu, chỉ dạy rất thâm trầm, nên cảm động rơi nước mắt, kính
cẩn bạch Phật rằng:
-Con tuy nhờ Phật chỉ dạy cho hiểu được chơn tâm, nhưng hiện
nay con vẫn còn dùng "cái tâm phân biệt" (vọng tâm) nghe lời Phật
nói, rồi ngộ suông cái chơn tâm này mà thôi, nên chưa dám nhận chắc là tâm
con. Vậy xin Phật thương xót chỉ dạy cho con hết nghi ngờ, để trỡ về với
đạo vô thượng.
Phật dạy: Nếu các ông lấy vọng tâm nghe chánh pháp (chơn
tâm) thì chánh pháp này cũng trở thành ra vọng, không thể nghe đặng chánh
pháp. Các ông nên biết: ta cũng như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng,
các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt
trăng, thì chẳng những không thấy được mặt trăng, mà cũng không biết luôn
cả ngón tay. Vì cho ngón tay là mặt trăng, thì không những không biết ngón
tay là gì, mà cũng không biết thế nào là tối và sáng. Vì mê chấp ngón tay
là mặt trăng, thì tối và sáng làm sao ró được.
Nay nếu các ông chấp cái "phân biệt" (vọng) làm
tâm của mình, thì cái tâm này, khi rời tiếng nói pháp của ta, cũng vẫn còn
phân biệt, thế mới phải thật là tâm của các ông (chủ). Nếu rời tiếng nói
pháp của ta ra, mà các ông không còn phân biệt nữa, thì đó là vọng (khách)
chớ không phải thật tâm (chủ) của các ông rồi. Cũng như người khách,
chỉ ngủ nhờ rồi đi, chớ không ở lại được. Nếu thật là chủ nhà, thì ở luôn
chớ không còn đi đâu nữa. Cũng thế, nếu thật là tâm của ông, thì không
đi đâu cả. Tại sao khi rời tiếng nói pháp của ta, thì ông không còn phân
biệt nữa? Không những cái "phân biệt" về tiếng, cho dến cái
"phân biệt" về sắc, hương ,vị , xúc và pháp, nếu rời sáu trần
cảnh ra, thì nó đều không còn phân biệt nữa. Thế thì cái tâm của ông đồng
là khách, có chỗ trả về. Vậy cái nào là "chủ", thật là tâm của
ông?
A-Nan hỏi Phật: - Nếu cái tâm của con có chỗ trả về (trần
cảnh qua thì tâm phân biệt hết) thì tại sao đức Như Lai lại nói: "Cái
chơn tâm của con không trả về đâu cả?". Xin Phật mở lòng từ bi chỉ dạy
cho.
IV.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ TƯ
Phật dạy:- Này A-Nan , tất cả cảnh vật trong thế gian không
ngoài: sáng, tối, trống, bít, trong, đục v. v...Nay ta đem cái vật này ,
cái nào trả về cho bản nguyên của cái nấy.
Như ánh sáng thì trả về cho mặt nhựt, vì không mặt nhựt thì
không sáng; còn tối thì trả về cho ban đêm, thông thả về cho trống, bít trã
về cho vách, trong trả về cho tịnh, đục trả về cho bụi v.v...Cái nào trả về
cho cái nấy rồi; còn cái "thấy" của ông thấy các cảnh vật đó, ông
muốn nó trở về đâu? Nếu trả về cho cái sáng, thì khi tối đến đáng lẽ ông
không thấy tối. Nếu trả nó về cho tối, thì khi sáng đến ông cũng phải không
thấy sáng; còn trả về cho trống, bít v.v...cũng thế. Rõ ràng các cảnh
vật tuy có thiên sai vạn biệt, mà "cái thấy" của ông thật không
sai khác. Như vậy, cái nào có thể trả được, thì cái đó là khách, tự nhiên
không phải là ông rồi; còn cái nào ông không trả về được, thì cái đó là
chủ, quyết định của ông chớ ai?
Cái tâm của ông mầu nhiệm sáng suốt và sẳn sàng như vậy, tại
sao ông lại tự mê muội đi, trở lại nhận cái vọng làm mình, đành chịu nổi
chìm trong biển khổ sanh tử, thật đáng thương xót !
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật phân tách các trần tướng, cái nào trả về cái
nấy, để cho rõ "cái thấy" không trả về đâu được. Đó là cái "chủ", là
"tâm" của chúng ta vậy.
*
VII.- A-NAN CÒN NGHI HỎI PHẬT
A-Nan thưa: Bạch thế tôn, con tuy biết
cái "thấy" này, không trả về đâu được, nhưng làm sao biết chắc nó
là "chơn tâm" của con?
VIII.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ NĂM
Phật dạy rằng: Này A-Nan, ông thử xem
trước mắt, tất cả các cảnh vật sum la vạn tượng, nào là núi sông, đất nước
v.v...Ông nên lựa riêng ra cái nào thuộc về cảnh vật, còn cái nào là tâm
ông. Này A-Nan, cùng tột tầm mắt thấy của ông, ngó lên thì thấy mặt
trời, mặt trăng, đó là vật chớ không phải là ông; xem rộng ra, núi, sông,
cây cối, cỏ hoa, người thú; cho đến gió bụi, chim chóc, cũng đều là vật chớ
không phải ông.
A-Nan, tất cả các cảnh vật, mặc dù có
cao thấp, xa gần, ngàn sai muôn khác, song cũng đều là "vật bị
thấy" của ông cả. Các vật loại tuy có sai khác, mà cái thấy của ông
không khác. Thế thì cái "thấy" này chính là "tâm" của
ông chứ không phải vật.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật chỉ tâm rất rõ
ràng.
*
IX.-PHẬT DẠY THÊM CÁI
"THẤY" LÀ TÂM CHỨ KHÔNG PHẢI VẬT
Nếu cái "thấy" này là vật,
thì ông cũng có thể thấy được cái "thấy" của ta.
Nếu ông cùng ta đồng thấy một vật, (bị
thấy) mà ông cho là thấy được "cái thấy" của ta, thời khi ta
không thấy, sao ông chẳng thấy được cái "không thấy" của ta? (vì
cái thấy không phải vật nên chẳng thấy được nó). Nếu ông nói: thấy
được cái "không thấy" của ta, thì ông thấy cái gì đó, chớ quyết
định không phải là thấy cái "không thấy" (tâm) của ta. Nếu ông
không thấy được cái "không thấy" của ta, thì quyết định nó là
"tâm", đương nhiên không phải là vật rồi. Lại nữa, nếu cái
thấy là vật, thì khi ông thấy nó, nó cũng phải thấy được ông. Như vậy thời
tâm, vật lôn lạo; và trong thế gian này, không thể phân biệt được loài hữu
tình (tâm), và loài vô tình (vật).
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn này Phật nói vật thì bị
thấy, còn tâm thì không bị thấy. Bởi cái thấy là tâm, nên không thể thấy
được nó.
*
Này A-Nan, khi ông thấy các cảnh vật,
cái thấy của ông khắp giáp tất cả, cái thấy đó không phải của ta và của
người khác, thì quyết định của ông chớ ai?
Rất rõ ràng như thế, tại ông còn nghi
"chơn tâm" của ông? Cái "chơn tâm" của ông như vậy, sao
ông không tự nhận lấy, lại đi cầu ta chỉ "chơn tâm" cho nữa?
LƯỢC GIẢI
Đoạn này, Phật chỉ tâm rõ ràng hơn
hết.
*
X.-ANAN NGHI "CÁI THẤY" CÓ
LỚN NHỎ, ĐỨT NỐI.
A-Nan thưa Phật: -Bạch Thế Tôn, nếu cái
"thấy" này quyết định là tâm của con, chớ không phải của ai, thì
khi con xem vũ trụ bao la, thấy mặt trời, mặt trăng...lúc bấy giờ cái thấy
của con rộng lớn khắp giáp cả hư không. Khi con trở vào trong nhà, thì chỉ
thấy nội trong nhà thôi. Vậy cái thấy này nó phải rút nhỏ lại, chun
vào nhà, hay là khi vào nhà, nó bị tường vách cắt đứt, nên còn nhỏ như thế?
Chúng con không biết nghĩa này thế nào, xin Phật từ bi chỉ dạy.
XI.- PHẬT DẠY: TRẦN CẢNH CÓ LỚN NHỎ,
CÁI "THẤY" KHÔNG LỚN NHỎ
Phật dạy: Này A-Nan, trong thế gian tất
cả cảnh vật có lớn nhỏ trong ngoài, tốt xấu v.v...đều thuộc về trần cảnh
hiện tiền cả, chớ không phải cái thấy của ông có lớn nhỏ, tóp lại hay nới
ra. Cũng như trong cái hộp vuông, thì thấy hư-không vuông, trong cái
chén tròn thấy hư không tròn. Vì chén tròn, hộp vuông, nên thấy hư không có
vuông và tròn, chớ không phải cái hư không thật có tướng vuông
tròn. Nếu hư không quyết định là vuông, thì khi để cái chén tròn, đáng
lẽ không thấy hư không tròn. Trái lại, Nếu hư không quyết định là
tròn, thì khi để hộp vuông, đáng lẽ không thấy nó vuông.
Vậy nên biết: vuông, tròn là tại đồ
vật, chớ không phải hư không có vuông, tròn. Nếu phá hết các đồ vuông, tròn
thì ông sẽ thấy hư không không có tướng vuông, tròn. Không phải bỏ hư không
vuông mà có hư không tròn, hay trừ hư không tròn mà có hư không
vuông.
Cái "thấy" của ông cũng thế,
không có vuông tròn hay lớn nhỏ, mà lớn nhỏ, vuông tròn là tại cảnh
vật.
Nếu ông cho khi vào nhà, cái
"thấy" quyết định phải tóp nhỏ lại, thì ông ra ngoài sân xem mặt
nhựt, ông phải kéo giản cái "thấy" ra đến mặt nhựt hay
sao? Lại nữa, khi vào nhà, nếu ông cho cái thấy bị cắt đứt đi, thì khi
xoi vách trống ra một lỗ, thấy được bên ngoài, sao cái thấy của ông không
có đầu nối?
Nghĩa đó rất rõ ràng như vậy, chớ có
chi lạ mà ông nói không biết.
A-Nan, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến
giờ vì mê mình (tâm) làm vật, bỏ mất chơn tâm của mình, bị cảnh vật xoay
chuyển (chi phối) nên thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, tốt xấu v.v...Nếu ai
chuyển xoay được cảnh vật, thân tâm đặng sáng suốt viên mãn, thì đồng với
chư Phật. Lúc bấy giờ không rời nơi đạo tràng (chổ nầy) mà ở trên đầu một mảy
lông, có thể chứa đựng khắp cả mười phương thế giới.
LƯỢC GIẢI
Từ nơi thể tánh chơn tâm, vì vô minh
vọng động, sanh ra có hư không thế giới, chúng sanh cùng các cảnh vật, nên
gọi "mê mình là vật". Khi có cảnh vật rồi, cứ theo đó mà phân
biệt xấu tốt, lớn nhỏ, mừng giận v.v...nên nói "bị vật chuyển
xoay".
Đến khi hết vô minh vọng động, trở lại
với thể tánh chơn tâm, thì các cảnh vật ấy không còn; như người thức giấc
chiêm bao, thì cảnh chiêm bao kia hết, nên nói "xoay chuyển vật"
là thế.
Lúc bấy giờ, một sợi lông hay mười
phương thế giới cũng đều là chơn tâm cả. Đã đồng là chơn tâm, thì không còn
thấy thế giới lớn hơn sợi lông, hay sợi lông nhỏ hơn thế giới , vì đồng một
thể tánh, nên nói: "Trên đầu một sợi lông, có thể chứa đựng mười
phương thế giới".
Đoàn này lý thâm, phải suy nghĩ nhiều
mới hiểu.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ Năm
I.- A-Nan nghi: nếu "cái thấy" là mình,
thì tâm này là ai?
II.- Cái thấy rời tất cả cái tướng.
III.- Cái thấy tức tất cả các pháp.
IV.- Phật trấn tĩnh đại chúng.
V.- Ngài Văn Thù đứng lên thưa hỏi.
VI.- Phật dạy: Cái thấy không có "thị" và "phi
thị".
VII.- A-Nan nghi: Chơn tâm đồng với thuyết tự nhiên ngoại đạo.
VIII.- Phật bác cái chấp "tâm tự nhiên mà có".
IX.- A-Nan nghi: Tâm do nhơn duyên sanh.
X.- Phật bác cái chấp: "nhơn duyên sanh".
XI.- Phật day: Chơn tâm không thể dùng tâm suy nghĩ hay lời nói luận bàn
được
XII.- A-Nan trở lại nghĩ "nhơn duyên sanh".
XIII.- Phật gạn lại hỏi "cái thấy" để chỉ rõ chơn tâm.
XIV.- Phật chỉ cái "thấy" không phải vọng, song chưa phải là chơn
tâm.
XV.- Phật chỉ tâm lần thứ sáu.
I.- A-NAN NGHI: NẾU CÁI "THẤY" LÀ MÌNH THÌ THÂN
TÂM NÀY LÀ AI?
A-Nan thưa Phật: -Bạch thế tôn! Nếu cái "thấy" này
thật là "tâm" con, thì thân tâm của con hiện nay đây là ai? Và
nếu cái "thấy" thật của con, thì nó phải hiện ở trước, khiến cho
con thấy được nó. Lại nữa, thân tâm, của con hiện nay đây, biết phân
biệt được nó (cái thấy), còn nó không biết phân biệt được thân tâm con. Xin
đức Thế Tôn mở lòng đại bi chỉ dạy cho kẻ chưa ngộ này.
II.-CÁI THẤY (TÂM) RỜI TẤT CẢ HÌNH TƯỚNG
Phật dạy A-Nan: Ông nói "cái thấy phải ở trước mặt để
ông thấy nó", nói như vậy không phải, vì nếu cái "thấy" thật
ở trước mặt ông, ông thấy được nó, thì cái "thấy" đó ở chỗ nào
phải có nhất định và phải chỉ ra được .
Nay ông ngồi trong rừng Kỳ đà, xem các cảnh vật, đưa tay chỉ
ra từng món: chỗ im mát kia là rừng cây, cái sáng chiếu nọ là mặt nhựt, nơi
ngăn ngại này là vách, chỗ trống đó là hư không; cho đến cỏ cây hoa lá, các
vật lớn nhỏ tuy khác, song đều có hình tướng, có thẻ chỉ ra được cả. Còn
cái "thấy" nếu có ở trước mặt ông, thì ông nên lấy tay chỉ chắc
chắn, cái nào là cái "thấy". Nếu hư không là cái "thấy"
thì cá gì là hư không? Còn nếu cảnh vật là cái "thấy", thì cái gì
là cảnh vật? Đối với các cảnh vật sum la vạn tượng, ông nên chín chắn phân
tích rõ ràng, rồi chỉ cho ta xem, cái nào là cái "thấy" cũng như
chỉ các vật, không có lầm lộn.
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con mở tầm con mắt và đưa tay chỉ
khắp tất cả, thì đều là "vật" chớ không có cái nào là
"thấy". Dù cho bực Bồ tát cũng không thể phân tích ở nơi muôn vật
để chỉ riêng cái "thấy" ra được; huống chi chúng con là bậc sơ
học thinh văn, làm sao chỉ được .
Phật dạy: Phải lắm!
LƯỢC GIẢI
Tâm không phải cái hình tướng, củng như vàng không phải là
vòng, kiềng, xoa, xuyến v.v ...
III. CÁI THẤY (TÂM) TỨC TẤT CẢ PHÁP
Phật dạy rằng: Này A-Nan! Như lời ông nói: "trong các
cảnh vật, không thể chỉ riêng cái "thấy" ra được "; vậy nay
ông đứng trước cảnh vật chỉ lại coi, cái nào không phải là cái
"thấy"?
A-Nan thưa: Con hiện đang xem tất cả các cảnh vật, không
biết cái nào không phải cái "thấy". Nếu rừng cây kia không phải
cái "thấy", thời làm sao thấy được rừng cây. Còn rừng cây là cái
"thấy", thì sao gọi là rừng cây. Lại nữa, hư không nếu không phải
là cái "thấy", thì làm sao thấy được hư không . Còn nếu hư không
tức là cái "thấy", thì sao lại gọi là hư không. Con chín chắn suy
nghĩ: cái nào cũng là cái "thấy" cả.
Phật dạy: phải lắm!
Khi đó đại chúng nghe lời Phật nói như vậy, tất cả đều hoang
mang lo sợ, vì không biết nghĩa ấy thế nào.
LƯỢC GIẢI
Tâm đã sanh ra các pháp , thì pháp nào cũng là tâm cả:
Cũng như vàng đã làm ra các đồ trang sức thì món nào cũng là
vàng cả.
*
IV. PHẬT TRẤN TĨNH ĐẠI CHÚNG
Phật dạy A-Nan và đại chúng hoang mang, sợ hãi, nên sanh tâm
thương xót, liền an ủi A-Nan và đại chúng rằng:
Như-Lai nói chơn thật, chẳng dối trá, không phải như chúng
ngoại đạo Mạc-già-lê, nói năng rối loạn không nhất định đâu. Các ông nên
bình tĩnh và chín chắn suy xét lại, chớ để cho Như Lai thêm lòng thương
xót.
V.- NGÀI VĂN THÙ ĐÚNG LÊN THƯA HỎI
Khi ấy Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử thương cả bốn
chúng, nên đứng dậy lạy Phật , cung kính chắp tay và thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Trong đại chúng đây chưa hiểu cái nghĩa: các
cảnh vật là cái "thấy" hay không phải cái "thấy"?
Bạch Thế Tôn! Các cảnh vật hiện tiền đây, nếu là cái
"thấy", thì phải chỉ ra được; còn nếu không phải cái
"thấy", thì đáng lẽ không thể thấy được. Vì trong đại chúng không
hiểu nghĩa này thế nào, cho nên mới sợ hãi, hoang mang. Cúi xin đức Như Lai
duỗi lòng từ bi chỉ dạy cho biết: Các cảnh vật hiện tiền đây, cùng với cái
"thấy" này, nguyên là gì? Trong đây không có cái "phải"
và cái "không phải".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này lý thâm, nên ngài Văn -Thù mới đứng lên thưa hỏi:
người học phải suy xét nhiều mới hiểu được.
Nói cảnh vật và cái thấy, tức là chỉ cả vật chất với tinh
thần đồng một thể tánh chơn tâm. Vì chơn tâm thì không thể suy nghĩ và bàn
luận được, phải tự ngộ mà thôi, nên nói, "nguyên nó là cái gì?"
(vì không thể nói ra được). Bởi nó rời đối đãi thị phi, nên nói "trong
đó không có cái phải và cái không phải".
*
VI.- PHẬP DẠY: CÁI "THẤY" KHÔNG CÓ
"PHẢI" VÀ "KHÔNG PHẢI" (THỊ, PHI THỊ)
Phật kêu ngài Văn -Thù và Đại chúng, dạy rằng:
- Mười phương các đức Phật và các vị Đại Bồ tát an trụ trong
chơn tâm rồi, thời không còn thấy thật có các cảnh vật là căn, trần, thức
nữa. Cái thấy cùng với cảnh vật bị thấy, nguyên là "chơn tâm". Đã
là chơn tâm, thì đâu còn có "phải" hay "không phải"
nữa. Như ông là Văn Thù, vậy có thể nói ông là "thật" Văn Thù hay
"không thật" Văn Thù được không?
Văn -Thù thưa: -Bạch Thế Tôn! Chính như thế đó, con là Văn
-Thù rồi, thì không thể nói "thật Văn -Thù" được; vì nếu nói
"thật Văn -Thù", thì phải nói ông Văn -Thù giả (thứ hai). Song
con nay đã là Văn -Thù rồi, thì không thể nói "thật" hay
"không thật" được.
LƯỢC GIẢI
Chơn tâm không hai, nên không còn thị và phi đối đãi; không
thể nói "quấy" đã đành, mà nói "phải" cũng không trúng.
Bởi vì nó ngoài vòng đối đãi, cũng như ông Văn -Thù là Văn -Thù, không thể
nói:"thật" hay "không thật" được .
Phật dạy: cái thấy cùng với cảnh vật bị thấy cũng lại như
vậy, đều là thể tánh chơn tâm, vì vọng động mà có ra: thấy nghe và các cảnh
vật. Nó cũng như mặt trăng thứ hai, đâu có gì mà nói "phải" hay
"không phải". Nghĩa là chỉ có một mặt trăng chánh, (chơn tâm)
trong đó không có cái "phải" mặt trăng hay "không phải"
mặt trăng.
Nay ông thấy có cái "thấy" và "cảnh vật bị
thấy" đó là vọng tưởng; còn đối với thể tánh chơn tâm, thì không còn
nói phải hay không phải được. Bởi thế nên chơn tâm nói ra ngoài cái phạm vi
"chỉ bày" và "không chỉ bày" của ông rồi.
LƯỢC GIẢI
Suy nghĩ không tới nói năng không nhấm. Đại ý đoạn này nói:
chỉ có một chơn tâm, không thể nói phải hay không phải, nó vượt ra ngoài sự
đối đãi và nói năng phân biệt.
Vì vọng động mà sanh ra các vật chất (cảnh) và tinh thần
(tâm). Cũng như chỉ có một mặt trăng chánh, không thể nói phải mặt trăng
hay không phải mặt trăng; vì lòa mà thấy in tuồng có mặt trăng thứ
hai.
*
VII.- A-NAN NGHI "CHƠN TÂM" ĐỔNG VỚI THUYẾT
"TỰ NHIÊN" CỦA NGOẠI ĐAO.
A-Nan thưa: -Bạch Thế Tôn ! ngày trước Phật ở tại núi Lăng
Già, có dạy cho ông Đại Huệ Bồ Tát v.v...rằng: "các chúng ngoài đạo
kia thường chủ trương thuyết "tự nhiên sanh", còn ta thời nói
"các pháp do nhơn duyên sanh", nên không đồng với thuyết của các
ngoại đạo kia".
Hôm nay nghe lời Phật dạy, thì con hiểu cái "chơn
tâm" này in như tự nhiên mà có; chớ không phải "nhơn duyên
sanh", vì nó rời tất cả các vọng tưởng điên đảo, không sanh, không
diệt. Cúi xin Phật từ bi chỉ dạy cho con ngộ được chơn tâm thường trụ này,
mà không lạc vào thuyết "tự nhiên" của các tà đạo.
LƯỢC GIẢI
Cái chơn tâm này, nó tuyệt đối đãi, ngoài thị và phi. Nếu còn
chấp có, không , thị và phi, nhơn duyên hay tự nhiên v.v...Đều không trúng
cả. Song chúng sanh vì cái mê chấp nhiều đời, cũng như cây chuối nhiều bẹ,
lột hết bẹ này, thì nó bày ra bẹ khác. Phật vừa bác xong thị và phi, thì
ông A-Nan liền chấp nhơn duyên và tự nhiên v.v...than ôi! Lưới mê nhiều đời
chồng chập, thật khó trong một lúc vẫy vùng ra khỏi!
VIII.- PHẬT BÁC CÁI CHẤP "TÂM TỰ NHIÊN MÀ
CÓ"
Phật dạy rằng: Ta đã dùng nhiều phương tiện và thành thật
chỉ dạy cho tường tất như thế, mà ông cũng chưa hiểu ngộ, lại còn mê muội
chấp là tự nhiên nữa.
A-Nan nếu thật tự nhiên, thì ông phải chỉ rõ cái
"thấy" này, lấy gì làm cái thể tự nhiên của nó? Lấy cái
"sáng" làm tự nhiên hay lấy cái "tối" làm thự nhiên?
Lấy cái "trống không " làm tự nhiên hay lấy cái "ngăn
bít" v.v...làm tự nhiên?
A-Nan, nếu lấy cái "sáng" cho là tự nhiên cái thể
của nó như vậy, thì khi tối lại, đáng lẽ ông không thấy được tối. Cho đến
lấy cái "tối" v.v...làm thể tự nhiên của nó, thì khi sáng đến,
cái thấy của ông phải mất, làm sao thấy được cái sáng v.v...
IX.- A-NAN LẠI NGHI TÂM DO "NHƠN DUYÊN SANH"
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, cái thấy này nếu không phải tự
nhiên mà có, thì chắc do nhơn duyên sanh. Con hiểu như vậy chẳng biết có
phải không? xin đức Thế Tôn từ bi chỉ dạy.
X.- PHẬT BÁC CÁI CHẤP "NHƠN DUYÊN SANH"
Phật bác rằng: Ông nói "nhơn duyên sanh". Vậy nay
ta hỏi ông: Cái thấy này là nhơn duyên cái sáng mà có, hay nhơn duyên cái
tối mà có? Nhơn duyên cái trống không mà có, hay nhơn duyên cái ngăn bít
v.v...mà có?
A-Nan, nếu nhơn duyên cái sáng mà có, thì khi tối đến, ông
phải không thấy được cái tối; còn nhơn duyên cái tối, cái trống, cái bít
v.v...cũng vậy.
XI.- PHẬT DẠY: CHƠN TÂM KHÔNG THỂ SUY NGHĨ VÀ LUẬN BÀN
ĐƯỢC.
Phật dạy: A-Nan! Ông phải biết: Cái thấy (tâm) này không
phải "nhơn", không phải "duyên", không phải "tự
nhiên", và cũng không phải "không tự nhiên", không cái
"phi", không cái "bất phi", không cái "thị",
không cái "phi thị", nó rời tất cả tướng, mà chính là tất cả
pháp. Như thế thời ông làm sao để tâm suy nghĩ cho tới, dùng lời nói luận
bàn cho kịp và gọi nó bằng thứ gì được. (ly ngôn thuyết tướng, ly tâm duyên
tướng, ly danh tự tướng).
Nếu ông để tâm suy nghĩ và dùng lời nói luận bàn, thì cũng
như người quơ tay chụp bắt hư không; chỉ thêm mệt nhọc, chớ làm sao mà chụp
bắt hư không cho được.
LƯỢC GIẢI
Đến chỗ cao siêu tuyệt diệu, thì không còn suy nghĩ, luận
bàn được; nếu còn suy nghĩ luận bàn được thì không phải là cao siêu tuyệt
diệu.
Bởi thế nên Đức Thích Ca đóng cửa thất tại nước Ma-Kiệt, ông
Duy-Ma-Cật ngậm miệng tại thành Tỳ-Da, tổ Đạt-Ma ngồi tại chùa Thiếu Lâm,
day mặt vô vách chín năm, không nói một lời, đều vì cái lý cao siêu, không
thể luận bàn được.
*
XII.- A-NAN TRỞ LẠI NGHI "NHƠN DUYÊN SANH"
A-Nan thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Cái "thấy" này nếu
không phải "nhơn" không phải "duyên", tại sao đức Thế
Tôn thường cùng với các thầy Tỳ-kheo nói: "cái thấy phải đủ bốn duyên
mới sanh"; như nhơn hư không, ánh sáng, tâm và con mắt mới sanh. Vậy
nghĩa này thế nào?
Phật dạy rằng: Này A-Nan, ta nói thuyết nhơn duyên, là đứng
về phần sự tướng (hiện tượng), chỉ các pháp trong thế gian mà nói, chớ
không phải chỉ cho lý tánh tuyệt đối (bản thể) vậy.
LƯỢC GIẢI
Về phương diện pháp tướng (mượn danh từ triết học nói cho dễ
hiểu, gọi là phần hiện tượng) nói về "thức", thì Phật nói có căn,
trần, thức và nhơn duyên v.v...Còn đứng về phương diện pháp tánh (mượn danh
từ triết học nói cho dễ hiểu, gọi là phần bản thể) thì không còn danh
tướng, nói năng kêu gọi hay suy nghĩ được.
Bởi thế nên trong kinh, Phật nói: "Đạo ta cao siêu
không thể suy nghĩ và luận bàn được". Kinh này là nói về phần lý tánh
tuyệt đối.
*
XIII.- PHẬT GẠN HỎI LẠI CÁI "THẤY" ĐỄ CHỈ
RÕ CHƠN TÂM
Phật hỏi: Này A-Nan ! bậy giờ ta hỏi ông: người đời thường
nói "tôi thấy". Vậy thế nào là "thấy" và thế nào là
không "thấy"?
A-Nan thưa: Người đời nhơn có ánh sáng mới thấy được cái
vật, thì gọi là "thấy"; còn không có ánh sáng, chẳng thấy các
vật, thì bảo rằng "không thấy"
Phật dạy: Nếu không có ánh sáng mà bảo là không thấy, thì
khi tối đến đáng lẽ ông cũng không thấy được cái "tối"? Còn như
ông thấy được cái "tối", thì khi đó chẳng qua không có ánh sáng
mà thôi, chớ sao lại nói "không thấy"?
Lại nữa, nếu khi tối ông không thấy được cái
"sáng", mà ông cho cho là thấy, thì khi sáng ông không thấy được
cái "tối", đáng lẽ cũng phải bảo là không thấy mới phải. Như
vậy,thời "tối" vá "sáng" cả hai đều phải bảo là
"không thấy" hết.
Bởi thế, ông nên biết: "tối" và "sáng"
hai món trần tướng nó tự thay đổi vơi nhau, còn cái "thấy" của
ông lúc nào cũng có. Vậy thì thấy "tối" và "sáng" đều
gọi là thấy cả, tại sao khi thấy tối, ông nói "không thấy"?
XIV.- PHẬT CHỈ THẤY CÁI KHÔNG PHẢI VỌNG, SONG CHƯA PHẢI
LÀ CHƠN TÂM
(Đoạn này nguyên ở trước, nay djch giả đem lại đây cho thuận
nghĩa).
Phật dạy A-Nan rằng: -Cái "thấy" của ông đó, không
phải là vọng, song chưa phải là "chơn tâm". Nó cũng như mặt trăng
thứ hai (do lòa con mắt mà có) tuy không phải bóng mặt trăng dưới nước,
nhưng chưa phải là mặt trăng chánh.
LƯỢC GIẢI
Mặt trăng chánh là dụ cho chơn tâm, mặt trăng thứ hai là dụ
cho cái thấy, nghe v.v...các giác quan về phần trực giác. Bóng mặt trăng là
dụ cho vọng tưởng phân biệt.
Đại ý đọạn này nói cái "thấy" không phải vọng tâm,
nhưng cũng chưa phải là chơn tâm, nghiã là nó gần với chơn tâm mà thôi.
Cũng như mặt trăng thứ hai do lòa con mắt mà có; nó không phải bóng mặt
trăng dưới nước,nhưng cũng chưa phải là mặt trăng chánh.
*
Phật dạy: A-Nan, ông phải biết: Khi ông thấy sáng, thì cái
"thấy" của ông không phải là cái "sáng"; khi ông thấy
tối, cái "thấy" của ông không phả là cái "tối"; khi ông
thấy trống không, cái thấy của ông không phải là cái "trống
không"; khi ông thấy ngăn bít cái "thấy" của ông không phải
là cái "ngăn bít".
LƯỢC GIẢI
Nói cái "thấy" chớ kỳ thực là chỉ chung cho cả cái
"nghe, hay, biết". Nói "sáng, tối,trống, bít" là chỉ
chung cho các cảnh vật.
Đại ý bài này nó: Khi thấy các cảnh vật, thì cái
"thấy" không phải là cảnh vật.
*
XV.-PHẬT CHỈ CHƠN TÂM LẦN THỨ SÁU.
Phật dạy:- Ông đã hiểu rõ bốn nghĩa này rồi; ông nên hiểu
thêm lên một từng nữa: Khi chơn tâm đã khởi ra cái "thấy" (cái
giác quan), thì cái "thấy" không phải là "chơn tâm";
cái "thấy" còn cách biệt với chơn tâm, (vì còn một lớp mê), cái
"thấy" không thể bì kịp với "Chơn tâm "" (đoạn này
Phật mới chỉ chính xác cái chơn tâm)
LƯỢC GIẢI
Mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu: khi bản thể (tâm)
khởi ra hiện tượng (các giác quan) thì hiện tượng không phải là bản thể,
hiện tượng còn cách biệt với bản thể, hiện tượng không thể bì kịp bản thể.
Cũng như khi nước đã biến thành sóng, thì sóng không phải hoàn toàn là
nước, sóng còn xa biệt với nước (vì bị gió xao động), sóng không thể bì kịp
nước.
Đành rằng "tâm" cùng với cái "thấy"
v.v...không hai, nhưng vì mê nên tâm biến ra các giác quan thấy nghe hay
biết. Lúc bấy giờ cái thấy nghe hay biết, không phải là chơn tâm. Ngộ rồi
thì cái thấy nghe hay biết mới gọi là "chơn tâm". Song khi chưa
ngộ thì không thể nói cái thấy, nghe v.v...Các giác quan là chơn tâm
được.
Cũng như nước với sóng không khác, nhưng vì gió động nên
nước biến thành sóng; lúc bấy giờ sóng không phải là nước, nươc cách biệt
với sóng. Đến khi hết gió xao động thì sóng trở lại thành nước. Nhưng khi
còn động thì không thể nói sóng đó là nước. Như thế thời ông làm sao lại
nói là "nhơn duyên, tự nhiên, hòa hợp, và phi hòa hợp" được . Các
ông là hàng Thinh văn, trí thức hẹp hòi, không thông hiểu được thật tướng
(chơn tâm). Ta đã chỉ dạy nhiều lần rồi, vậy các ông nên khôn khéo suy nghĩ
và cố gắng tiến lên tu hành, chớ nên giải đãi trên con đường bồ đề.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ Sáu
I.-A-nan không hiểu hỏi Phật
II.- Phật chỉ hai món vọng thấy
III.- Dụ về nghệp chung của cá nhơn .
IV.- Dụ về nghiệp chung của đồng loại
V.- Lấy nghiệp riêng để chỉ rõ nghiệp chung
VI.-Phật kết thúc lại
VI.- Phật chỉ các pháp đều về chơn tâm
VIII.-A-nan nghi cái nghĩa bốn đại hòa hiệp sanh
IX.- Phật quở A-nan học nhiều mà không hiểu
X.- Phật nói cái tánh của bốn đại phi hòa-hiệp
XI.- Đất từ chơn tâm biến hiện
XII.- Lửa từ chơn tâm biến hiện
XIII.- Nước từ chơn tâm biến hiện
XIV.- Gió từ chơn tâm biến hiện
I.-A-NAN KHÔNG HIỂU HỎI PHẬT
A-Nan thưa Phật:- Bạch Thế Tôn,vừa rồi Phật nói cái nghĩa
"nhơn duyên, tự nhiên hòa hiệp và bất hòa hiệp ",chúng con còn
chưa hiểu, nay lại nghe Phật nó đến nghĩa "tâm sanh ra cái thấy, cái
thấy không phải tâm ..." chúng con lại còn thêm mù mịt nữa. Cúi xn đức
Như lai duỗi lòng từ bi, chỉ dạy cho chúng con ngộ được nhơn tâm thanh tâm
thanh tịnh, sáng suót này.
II.- PHẬT CHỈ HAI MÓN VỌNG THẤY
Phật dạy: -A-Nan ông phải chín chắn nghe, ta sẽ vì các ông
phân biệt chỉ dạy,cũng khiến cho chúng sanh đời sau ngộ được đạo quả Bồ
đề. Này A-Nan , tất cả chúng sanh bị sanh tử luân hồi trong thế gian,
đều do hai món điên đảo phân biệt vọng thấy, tức nơi đó phát sanh ra sự
nghiệp, rồi theo nghiệp mà chịu khổ luân hồi.
LƯỢC GIẢI
Từ nơi tâm động vọng sanh ra các nghiệp, rồi theo nghiệp mà
chịu khổ hay vui. Cũng như người từ mê mà sanh ra ngủ, từ nơi đó mà hiện ra
các cảnh vật vui, buồn rồi chịu lấy buồn vui.
*
-Thế nào là hai món? -1- Cái điên đảo thấy thuộc về nghiệp
riêng của cá nhơn. 2- Cái điên đảo vọng thấy thuộc về nghiệp chung của nhơn
loại.
III.- DỤ VỀ NGHỆP CHUNG CỦA CÁ NHƠN .
A-Nan, sao gọi là cái điên đảo vọng thấy thuộc về nghiệp
riêng của cá nhơn? Dụ như người nhặm con mắt, ban đêm dòm đèn thấy có vòng
tròn lòa đỏ năm màu (ngủ uẩn).
Ý ông ghĩ sao? Cái vầng đỏ năm màu ấy, của đèn hay cái
thấy?
A-Nan, nếu ông nói "của đèn" thì sao những người
không nhặm mắt, họ chẳng thấy vầng đỏ, mà duy có người nhặm, mắt mới thấy
thôi?
Nếu nói "cái vầng đỏ đó của cái thấy, thì cái thẫy đã
thành vầng đỏ; vậy người nhặm con mắt thấy vầng đỏ, thì bảo là thấy cái gì?
(vì cái thấy đã thành vầng đỏ rồi), thì hông thể nói thấy vầng đỏ nữa
được"
Lại nữa nếu ông chấp "cái vầng đỏ rời đèn riêng
có", thời đáng lẽ ông xem bàn ghế chung quanh đều có vầng đỏ cả. Còn
nói "vầng đỏ rời cái thấy riêng có", thì không cần con mắt thấy.
Vậy thì tại sao người nhặm mắt thấy có vầng đỏ?
Thế nên phải biết: cái mà sáng là ở nơi đèn, cái thấy vì
bệnh mắt mà có bóng lòa. Cái "bóng lòa" và cái "thấy
lòa" đều do nơi mắt nhặm. Còn cái thấy được lòa nhặm, thì "cái
thấy" đó không phải nhặm hiện.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn này Phật nói: Vì vô minh vọng động (nhặm) mà thấy
có cái cảnh vật hiện ra như vậy (lòa đỏ). Chớ không phải do chơn lý (dụ
đèn) hay chơn trí (dụ cái thấy) và cũng không thể nói nó ngòai chơn lý hay
chơn trí.
*
IV.-DỤ VỀ NGHIỆP CHUNG CỦA ĐỔNG LOẠI
-A-Nan, sao gọi là nghiệp chung vọng thấy của đồng loại?- Dụ
như trong thế giới này có nhiều nước. Nhưng chỉ có một nước vì dân chúng
đồng tạo ác nghiệp, nên điều cảm thấy có điềm không tốt, như sao chổi, sao
phướng, hoặc hai mặt trời, hai mặt trăng v.v...Còn dân chúng ở các nước khác
thời đều không thấy và cũng không nghe.
V.- LẤY NGHIỆP RIÊNG ĐỂ CHỈ RÕ NGHIỆP CHUNG
Này A-Nan , như người nhặm con mắt, vì nghiệp riêng của họ,
nên "vọng thấy" cái đèn có vầng đỏ hiện ra. Tại con mắt nhặm mới
thành ra lòa, chớ "cái thấy" đó không lòa. So sánh như các
ông ngày hôm nay, thấy có núi, sông, thế giới và chúng sanh đó, đều do
ái" nhặm lòa từ vô thỉ" (vô minh vọng động từ vô thỉ) cho nên mới
thấy cảnh vật hiện ra như vậy.
Các ông nên biết: "mắt thấy" (kiến) với cảnh vật
bị thấy (kiến duyên) hiện tiền đây, đều do cái "vọng thấy" (giác
minh) hiện ra. Cái "vọng thấy" đó (giác kiến) nó lòa nhặm, chớ
cái chơn tâm không nhòa nhặm.
Cái chơn tâm biết được cái lòa nhặm đó (giác sở giác sanh)
nó không phải ở trong lòa nhặm (giác phi sảnh trung). Như thế thời làm
sao bảo cái chơn tâm đó là các cảm giác thấy, nghe, hay biết được ư? Đây
chính là cái nghĩa "tâm sanh ra cái thấy, cái thấy không phải tâm
v.v...ông mới vừa hỏi trước".
Thế nên, nay ông thấy "tôi", thấy "ông"
cùng thấy "thế giới" và "chúng sanh ", đều do ông lòa
nhặm (vô minh vọng động) mà thấy như vậy, chớ không phải cái thấy (tâm) đó
nó lòa nhặm, cho nên không thể bảo nó (chơn tâm) là "cái
thấy".
LƯỢC GIẢI
Đại ý đọan này nói: từ nơi chơn tâm, vì vô minh vọng động,
nên khởi ra có căn và cảnh (cái thấy và cái bị thấy). Vì các cảm giác:
thấy, nghe, hay, biết cùng với các cảnh vật bị thấy, đều do vô minh vọng
động hiện ra cả. Còn "chơn tâm" vì không phải là vô minh , nên
không thể gọi nó (chơn tâm) là cái cảm giác: nghe, thấy, hay, biết được
.
Đây là giải lại cái nghĩa ở đọan trước nó: "chơn tâm
sanh ra cái thấy v.v. ( kiến kiến chi thời) không phải là chơn tâm (kiến
phi thị kiến). Cái thấy nó còn xa cách chơn tâm v.v..."
Nên nhớ lỗi tại "vô minh vọng động", chớ không
phải lỗi tại cái "thấy" và "cảnh bị thấy". Cũng như tại
nhặm chớ không phải lỗi tại "cái thấy" của con mắt và" bóng
lòa ".
VI.-PHẬT KẾT THÚC LẠI
A-Nan , một người nhặm mắt, vì nghiệp riêng của họ, nên họ
thấy có cái vầng đỏ; cũng như dân chúng trong một nước, do ác nghiệp chung
tạo của họ, nên đồng thấy những điềm không lành hiện ra.
Lên một tầng nữa, là tòan cả chúng sanh trong mười phương
thế giới ngày nay đây, đều do "vô minh vọng động từ vô thỉ" nên
đồng vọng thấy có thế giới chúng sanh hiện ra vậy.
Từ nơi chơn tâm, vì hư vọng nên hiện ra các cảm giác thấy,
nghe, hay, biết. Do hòa hiệp vọng sanh ra, rồi cũng do hòa hiệp vọng diệt
đi.
Nếu các ông xa lìa được các duyên hòa hiệp cùng bất hòa
hiệp, và trừ hết các nhơn sanh tử rồi, thì cái chơn tâm thường trụ thanh tịnh,
bất sanh bất diệt hiện ra, và các ông được viên mãn đạo Bồ Đề.
LƯỢC GIẢI
Phật lấy một người nhặm đế dụ một nước thấy điềm ác; lấy một
nước để dụ chúng sanh trong mười phương. Vì vô minh vọng động từ vô thỉ,
nên thấy có chúng sanh và thế giới. Cũng như người nhặm mắt thấy có vầng
đỏ. Nếu hết nhặm thì vầng đỏ không còn, lúc ấy con mắt lành mạnh tự
hiện.
Cũng như vô minh vọng tưởng hết, thì thế giới chúng sanh
chẳng còn. Lúc bấy giờ chơn tâm sáng suốt hiện ra, được viên mãn đạo Bồ đề,
thế gọi là bực Đại Giác.
VII.-PHẬT CHỈ CÁC PHÁP ĐỀU TRỞ VỀ CHƠN TÂM
A-Nan, ông còn chưa hiểu: các trần tướng huyễn hóa đó là nơi
tâm sanh ra, rồi cũng tùy tâm diệt mất (đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt
tận). Cái "tướng" (hiện tượng) của nó thì huyễn vọng, còn
"tánh" (bản thể) của nó lại chơn thường.
Nào là: 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới đều do nhơn duyên hư
vọng hòa hiệp tạm có sanh; nhơn duyên biệt ly hư vọng tạm gọi là
diêt. Các ông không biết: nào sanh, diệt, khứ, lai đều gốc ở nơi chơn
tâm thường trụ . Trong thể tánh chơn như thường trụ này, tìm kiếm cái khứ,
lai, mê, ngộ, sanh tử v.v...quyết không thể được.
LƯỢC GIẢI
Hiện tượng các pháp thì vọng, mà bản thể của các pháp lại
chơn . Đứng về phần hình tướng (hiện tượng) các pháp thì thấy có sanh,
diệt, khứ, lai. Còn đứng về phần bản tánh (bản thể) thời tìm cái khứ, lai,
sanh, diệt, mê, ngộ không thể được.
VIII.-A-NAN NGHI CÁI NGHĨA BỐN ĐẠI HÒA HIỆP
SANH
A-Nan thưa Phật rằng:- Bạch Thế Tôn, trước kia ngài thường
nói "Tất cả các vật trong thế gian đều do bốn đại hòa hiệp sanh".
Tại sao ngày hôm nay, Như Lai bác bỏ cả thuyết "nhơn duyên " và
"tự nhiên". Chúng con không biết nghĩa này thế nào? Cúi xin đức
Từ tôn chỉ dạy nghĩa trung đạo rốt ráo cho chúng con.
LƯỢC GIẢI
Phật đã nhiều lần bác cả nhơn duyên và tự nhiên, mà ông
A-Nan vẫn còn chấp mãi. Cũng vì lưới nghi nhiều lớp, không thể một lần lột
hết được!
IX.- PHẬT QUỞ A-NAN HỌC NHIỀU MÀ KHÔNG HIỂU
Phật dạy rằng: -Ông trước kia nhàm chán quả Thinh văn, Duyên
giác là thuộc về Tiểu-thừa, phát tâm cầu đạo vô thượng Bồ đề, cho nên ta
mới vì ông chỉ bày nghĩa lý cao thượng thứ nhứt (đệ nhứt nghĩa
đế). Tại sao ông còn đem lời nói tầm thường trong thế gian, là thuyết
"nhơn duyên" để tự ràng buộc lấy mình? Ông tuy học nhiều mà
không hiểu chi cả; cũng như người trong thế gian nói đến tên món thuốc này,
món thuốc kia, đến khi thuốc thật đem ra trước mắt, thì họ không thể phân
biệt được , thật đáng thương xót !
Ông nên chăm chú nghe, nay ta sẽ vì các ông, cùng với những
người tu về Đại-thừa đời sau, mà phân biệt chỉ dạy, để cho các ông thông
hiểu được thật tướng (chơn tâm).
A-Nan yên lặng, lóng nghe lời Phật dạy.
X.- PHẬT NÓI CÁI TÁNH CỦA TỨ-ĐẠI PHI HÒA HIỆP
A-Nan, ông nói rằng: "Do bốn đại hòa hiệp sanh ra tất
cả vật". Này A-Nan, nếu cái thể tánh (bản tánh) của bốn đại kia không
có hòa hiệp, thời nó không có hòa hiệp, thời nó không thể hòa với gì được;
cũng như hư không, không hòa hiệp với các vật. Còn nó có hòa hiệp, thời
đồng với vật biến hóa (hiện tượng sanh diệt) nghĩa là, trước sau thành
nhau, như nước thành băng, băng trở lại thành nước. Sanh diệt nối nhau,
sanh tử, tử sanh, sanh sanh tử tử, xoay tròn như vòng lửa, không dứt
đoạn.
LƯỢC GIẢI
Ông A-Nan lấy "hình tướng" (hiện tượng) của tứ đại
có hư vọng hòa hiệp mà hỏi. Còn Phật chỉ cái "thể tánh" (bản thể)
của tứ đại rất hòa hiệp, cũng như hư không, để giải thích. Nếu nó (tánh) có
hòa hiệp thì cũng đồng như các tướng (tứ đại) có sanh diệt.
*
XI.- ĐẤT TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN
- A-Nan, ông xem đất kia, lớn là quả địa cầu, còn nhỏ là hạt
bụi (vi trần). Chẻ hạt bụi rất nhỏ (cực vi) ra làm bảy phần, thì thành hạt
bụi lân hư (gần với hư không). Cái giáp ranh của sắc tướng tột đến chừng
đó. Nếu chẻ hạt bụi nhỏ nhứt này (lân hư) ra làm một lần nữa, thì thành hư
không. Thế thì rõ ràng hư không do chẻ bụi mà có, không phải do hòa hiệp
sanh.
Này A-Nan, như lời ông nói: "Do hòa hiệp sanh ra các
vật trong thế gian". Vậy ông thử xem một hạt bụi nhỏ nhứt này (lân hư)
, phải dùng bao nhiêu hư không hòa hiệp lại mới thành ra nó? không lẽ hạt
bụi nhỏ nhứt này hòa hiệp lại thành ra hạt bụi nhỏ nhứt (lân hư
trần).
LƯỢC GIẢI
Nếu nói "các vật do hòa hiệp thành" thì hạt bụi
nhỏ nhất này cũng phải do hòa hiệp mà thành. Vậy thì lấy cái gì hòa
hiệp thành hạt bụi này. Nếu nói "lấy hư không hòa hiệp lại thành"
thì phi lý. Còn không lấy hư không thì lấy cái gì hòa hiệp thành ra nó? (vì
ông A-Nan chấp các pháp do hòa hiệp mà sanh). Nếu nói lấy sắc tướng hòa
hiệp, thì thành ra một vật lớn, chớ không phải là thành hạt bụi nhỏ nhứt
(lân hư trần) nữa.
Lại nữa, nếu chẻ hạt bụi nhỏ nhứt (lân hư) ra thành hư
không, thì rõ ràng hư không không phải do hòa hiệp thành. Nếu nói do hòa
hiệp thành, thì phải dùng bao nhiêu sắc tướng hòa hiệp lại mới thành hư
không? không thể hư không tự nó hòa hiệp thành hư không?
LƯỢC GIẢI
Vì chấp "các pháp do hòa hiệp mà có". Vậy hư không
lấy cái gì mà thành? Không lẽ lấy hư không hòa hiệp thành hư không . Đoạn
trên Phật chỉ hạt bụi, đoạn này Phật chỉ hư không, đều phi hòa hiệp
cả.
*
Vậy nên biết: khi sắc hòa hiệp thì không phải hư không, khi hư
không hòa hiệp thì không phải sắc. Cái sắc còn có thể chia chẻ ra được, chớ
hư không làm sao mà hòa hiệp cho được?
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn này, Phật nói các pháp hư vọng hư huyễn, như hóa,
phi hòa, phi hiệp, do chúng sanh mê vọng mà thấy in tuồng như thật.
*
Các ông không biết: trong chơn tâm, tánh (bản thể) của sắc
là chơn không (tâm); tánh (bản thể) của không là chơn sắc (tâm). Nó vốn sẳn
thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới; tùy theo tâm của chúng sanh tạo nghiệp
và phân biệt như thế nào, thì có ứng hiện ra như thế nấy. Chúng anh không
biết, chấp là nhơn duyên sanh, hay tự nhiên có v.v...những cái chấp đó, đều
do thức tâm phân biệt so đo cả. Phàm có nói năng, phân biệt, thì đều không
đúng.
LƯỢC GIẢI
Thật ra các vật ở giữa này, không có nhứt định vật gì, thật
là vật gì cả. Tùy theo tâm của chúng sanh tạo nghiệp như thế nào, thì nó
hiện ra như thế ấy. Đối với chúng sanh đó, nó thật hay đúng với loài đó
thôi.
Như chén nước đây, nếu đồng nghiệp loài người thì đều thấy
thật là nước; còn đối với con vi trùng trong chén nước, thì không phải là
nước nữa rồi, mà chính là nhà cửa của nó.
Hay như cái bàn gổ này, đối với loài người thì thấy nó là
cái bàn thật, chớ đối với con mọt, thì lại không thành cái bàn nữa, mà thật
là món ăn của chúng.
Thêm một tỷ dụ nữa, như thân này đối với loài người, thì
thấy thật là thân người, chớ đối với con vi trùng trong thân, thì không
thành cái thân nữa, mà thật là một thế giới bao la vô tận của nó.
Vậy thì thấy thật nước hay thật chỗ ở, thật cái bàn gỗ hạy
thât món ăn, thấy thật thân người hay thật thế giới, đều tùy theo tâm niệm
phân biệt nhận định riêng của mỗi loài như thế nào, thì nó thành ra thế
nấy. Nên trong kinh nói: "tùy tâm biến hiện". Chúng ta
thường thấy: Khi nào tâm ta vui vẽ, thì thấy cảnh vật chung quanh đều vui,
cho đến ngủ chiêm bao củng thấy cảnh vui hiện ra. Trái lại, khi nào tâm ta
buồn phiền thì thấy cảnh vật chung quanh cũng buồn bực; mỗi mỗi đều do tâm
mình biến hiện ra cả, nên có câu:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!"
XII.-LỬA TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN
-A-Nan , lửa không có tự thể, nó chỉ gá các duyên mà sanh.
Ông hãy xem những nhà trong thành này, khi họ muốn nấu ăn, thì họ cần cái
kiếng (dương tọai) đưa ra trước mặt trời lấy lửa. Này A-Nan , lửa ấy nếu
nhơn hòa hiệp mà có, thì nó từ trong cái kiếng sanh, từ bùi nhùi ra, hay từ
nơi mặt nhựt đến?
Nếu lửa từ mặt nhựt đến, cháy được bùi nhùi trong tay của
ông, thì những cây rừng và các cảnh vật nó vừa trãi qua đó đáng lẽ
đều phải bị cháy cả.
Còn nói "lửa từ trong kiếng sanh ra cháy cái bùi
nhùi",sao cái kiếng người cầm đó không cháy? Và cái bàn tay của người
cầm củng không cháy?
Còn nói "lửa trong bùi nhùi sanh" thì cần gì phải
có bàn tày cầm cái kiến hứng ánh sáng mặt trời, mới có lữa?
Ông nên chín chắn xem xét: cái kiếng ở nơi tay người cầm,
mặt nhựt thời ở trên trời, bùi nhùi thì nằm tại đất. Cái kiếng và mặt trời
vẫn xa nhau, không phải hòa, không phải hiệp. Vậy thì lửa này từ đâu mà đến
cháy đây? Không lẽ lửa không từ đâu cả mà tự có?
Các ông không biết trong chơn tâm, tánh(bản thể) của lửa
(tâm) là thật không; tánh (bản thể) của không (tâm) mới là lửa thật. Nó vẫn
thanh tịnh khắp giáp cả pháp giới, tùy theo tâm của chúng sanh phân biệt
như thế nào, thì nó hiện ra như thế nấy.
Nếu một người cầm kiếng lấy lửa, thì một chỗ đó có lửa hiện
ra. Nếu tất cả người trong thế gian đều cầm kiếng lấy lửa, thì khắp tất cả
trong thế gian đều có lửa hiện ra; chỉ tùy theo vọng nghiệp của chúng sanh
mà hiện đó thôi, chớ không có xứ sở gì. Người thế gian không biết, dùng
thức tâm hư vọng phân biệt mê lầm chấp cho nhơn duyên sanh, hoặc tự nhiên
có v.v...phàm có nói năng, phân biệt đều không đúng sự thật.
LƯỢC GIẢI
Đại ý như đoạn trên ( đất)
*
XIII.-NƯỚC TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN
A-Nan, tánh nước không tịnh, đứng chảy chẳng thường. Như
trong thành Thất La, các vị đại huyễn sư, như ông Ca-tỳ-la-tiên,
Chiết-ca-la-tiên, Bác-đầu-ma và Ha-tát-đa v.v...Các vị này thường lấy nước
mặt trăng hòa với thuốc. Họ chờ đêm nào trăng sáng trong, cầm hột châu
phương chư hứng mặt trăng, thì có nước chảy ra ở thau.
Vậy nước ấy từ hột châu sanh hay từ hư không ra? Hay từ mặt
trăng đến?
A-Nan, nếu từ mặt trăng đến, nó làm cho hột châu ra nước;
vậy thời từ phương xa đến đây, trong khi trãi qua cây cối các cảnh vật, nó
phải đều làm cho ngập ướt cả; nếu thế thì cần gì phải có hột châu phương
chứ (hột châu lấy nước)? Song sự thật các cảnh vật không ngập ướt, thì rõ
ràng nước ấy không phải từ mặt trăng đến.
Còn nói "nước từ hạt châu ra", thì hột châu nếu đã
chảy ra được nước, đáng lẽ lúc nào nó cũng tự chảy ra được nước, cần gì
phải chờ nữa đêm hứng mặt trăng sáng mới có nước?
Còn nói "nước từ hư không sanh" thì hư không vô
biên, nước cũng phải vô biên; vậy thì từ nhơn gian cho đến thiên thượng,
tất cả cỏ cây, đất đai đều bị ngập lụt cả.
Ông nên chín chắn xem xét: Mặt trăng ở trên trời, hột châu ở
tay người cầm, cái thau hứng nước lại để dưới đất. Mặt trăng với hột châu
để cách xa nhau, không phải hòa cũng không phải hiệp, vậy nước đó từ đâu mà
đến? Không lẽ không nhơn đâu mà nó tự có.
Ông không biết trong chơn tâm, tánh (bán thể) của nước (tâm)
thật không; tánh (bản thể) của không (tâm) thật nước, vốn sẳn thanh tịnh
khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm của chúng sanh phân biệt như thế nào, thì
nó hiện ưng như thế nấy. Một người cầm hột châu lấy nước, thì một chỗ đó có
nước. Nếu tất cả người trong thế gìan đều cầm hột châu lấy nước, thì khắp
cả trong thế gian đều có nước. Nước tùy theo nghiệp chướng trong chúng sanh
mà phát hiện ra; nó không có phương hướng sứ sở gì. Người trong thế gian không
biết, lầm chấp nhơn duyên sanh, hoặc tự nhiên có, đều do thức tâm vọng
chấp, phân biệt cả. Phàm có nói năng, luận bàn thế nào, cũng đều không đúng
cả.
XIV.-GIÓ TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN
A-Nan, tánh gió không tịnh, động và tịnh chẳng thường. Như
ông thường đắp y đi vào đại chúng, cái chéo y của ông phất qua người gần
bên, thì có một chút gió quạt đến mặt người. Vậy gió này từ chéo y bay ra,
hay từ hư không bay đến, hay từ nơi mặt người sanh?
A-Nan, nếu gió này từ cái y bay ra, thì cái y đã thành gió,
vậy nó phải bay bổng rời khỏi thân ông, và ông đắp y thành ra đắp gió hay
sao? Ta hay xổ cái y ra, ông hãy thử xem coi gió ở chổ nào? chẳng lẽ trong
y có chổ cất (để) gió.
Nếu gió từ hư không sanh, vậy thời khi ông không động cái y,
sao chẳng có gió? Và hư không thường còn, thì gió cũng phải thường sanh,
nếu khi nào không có gió, thì hư không phải diệt. Song thật ra gió có thể
diệt (hết) chớ không làm sao diệt được.
Nếu hư không có sanh diệt, thời không gọi là hư không; còn
gọi là hư không thời làm sao lại sanh ra gió được.
Còn ông nói "gió từ nơi mặt người bị phất sanh";
nếu thật thế, thì gió phải phất đến mặt ông mới phải, tại sao nó lại phất
ngược trở lại mặt người bị phất.
Ông nên chính chắn xem xét: Cái y là ở nơi ông, cái mặt là
fthuộc về người kia (bị phất), còn hư không thì tự yên lặng; gió (động) với
hư không (lặng) tánh khác nhau, không hòa không hiệp, vậy gió từ nơi đâu mà
phát động đến đây? Không lẽ không từ nơi đâu mà tự có.
Các ông không biết trong chơn tâm, tánh (bản thể) của gió (tâm)
là thật gió, vốn sẳn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm chúng sanh
phân biệt như thế nào, thời nó hiện ra như thế nấy. Một người phất y, thời
có một chút gió sanh ra. Nếu tất cả mọi người trong thế giới đều phất y,
thì cả thế giới đều có gió, theo nghiệp của chúng sanh mà phát hiện, không
có phương hướng, xứ sở gì. Thế gian không biết, khởi thức tâm phân biệt so
đo, lầm chấp là nhơn duyên sanh, hoặc tự nhiên có v.v...đều không đúng cả.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ Bảy
I-Hư không từ chơn tâm biến thiện
II-Các giác quan từ chơn tâm biến thiện
III-Thức (phân biệt) từ chơn tâm biến thiện
IV-A-Nan ngộ được chơn tâm, đứng dậy phát nguyện rộng lớn.
I.-HƯ KHÔNG TỪ CHƠN TÂM BIẾN THIỆN
A-Nan, hư không vô hình, nhơn các hình sắc mà hiện bày ra.
Như ở trong thành Thất la này, khi dân chúng mới cất nhà, thì họ đào giếng
để múc nước. Đào một thước đất, thì thấy có một thước hư không hiện ra, đào
xuống mười thước thì thấy có mười thước hư không hiện ra; hư không cạn hay
sâu là tùy người đào nhiều hay ít. Vậy hư không này là do đất sanh, do đào
mà có, hay không do đâu mà tự sanh?
A-Nan, hư không này, nếu không do đâu mà tự sanh, thì khi
chưa đào sao không thấy có hư không, mà chỉ thấy đất đặc? Còn cái hư không
do đào mà có, thì khi quăng đất ra, đáng lẽ phải thấy hư không vào. Nếu
quăng đất ra trước mà không thấy hư không vào, thời sao lại nói hư không do
đào đất mà có? Nếu hư không không ra vào, thời đáng lẽ nó cùng với đất
không khác; nếu không khác thời đồng với đất. Vậy khi quăng đất ra, sao
chẳng thấy hư không ra? Nếu nói hư không do đào đất mới có, thời khi
đào, đáng lẽ phải ra hư không chớ sao lại ra đất Còn nói hư không chẳng do
đào mà ra thì khi đào ra đất, tại sao thấy có hư không?
Các ông nên chín chắn quan sát: đào là từ nơi tay người tùy
theo chỗ mà đào. Còn đất cục là nhơn chỗ đất cái dời đi. Đào là việc thật,
còn hư không thì trống không, hai cái không dính líu gì với nhau, không hòa
không hiệp. Vậy hư không từ nơi đâu mà ra không lẽ không nhơn đâu mà hư
không tự có.
Các ông biết trong chơn tâm tánh (bản thể) của hư không
(tâm) là chơn giác (tâm); tánh (bản thể) của giác (tâm) là chơn không, vốn
sẳn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới, tùy theo tâm chúng sanh thế nào,
thì nó hiện ra thế ấy. Một chỗ đào giếng, thì một chỗ có hư không, khắp cả
trong thế gian đều đào giếng, thì khắp cả thế gian có hư không; tùy theo
nghiệp của chúng sanh mà hiện ra, không có phương hướng xứ sở gì. Người
trong thế gian không biết, khởi tâm phân biệt so đo, chấp là nhơn duyên
sanh hoặc tự nhiên có v.v...đều không đúng cả.
A-Nan, ông nên biết: hiện tiền tánh của năm đại: đất, nước,
gió, lửa và hư không vốn viên dung khắp giáp, không lay động, đều là chơn
tâm cả, không có sanh và diệt. Chỉ tại các ông mê muội không biết mà
thôi.
LƯỢC GIẢI
Đất, nước, gió, lửa và hư không,năm đại này thuộc về phần
vật chất, đại diện cho các cảnh vật. Hai đại diện sau (kiến và thức) là
thuộc về phần tinh thần, đại diện cho các thức.
II.-CÁC GIÁC QUAN TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN
A-Nan, cái thấy không tự thể, nhơn đối với cảnh vật và hư
không mà có, như ông ngày nay ngồi trong rừng Kỳ đà, sớm mai thấy sáng,
chiều lại thấy tối, đêm không trăng trời thấy tối, có trăng lại thấy sáng.
Nhơn có tối và sáng, nên ông mới thấy có phân biệt.
Vậy cái thấy này cùng với tối, sáng và hư không là một thể
hay không phải một thể? Đồng hay khác?
Này A-Nan, khi tối thì không có sáng, khi sáng không có tối.
Nếu cái thấy này cùng với tối đồng một thể thì khi sáng đến, cái thấy phải
mất. Còn cái thấy này cùng với cái sáng đồng một thể, thì khi tối lại, cái
thấy diệt. Nếu cái thấy diệt, thời làm sao thấy tối và thấy sáng. Lại nữa,
tối và sáng khác nhau, còn cái thấy lại không sinh diệt, như thế thời làm
sao nói đồng một thể được. Nếu nói cái thấy cùng với tối, sáng và hư
không chẳng phải một thể, thì rời tối, sáng và hư không, ông hãy chia riêng
cái thấy của ông ra xem thử hình tướng của nó thế nào. Nếu trời tối, sáng
và hư không thì cái thấy của ông như lông rùa, sừng thỏ; nghĩa là không có.
Khi phân tách ra tối, sáng và hư không, ba cái đều khác, thì cái thấy của
ông ở chổ nào?
Lại nữa, tối sáng trái nhau, thế nào nói đồng được? Rời tối,
sáng và hư không ra, không có cái thấy, thì làm sao nói khác được? Không
thể chia ranh đây là hư không, kia là cái thấy được, thời làm sao lại nói
không đồng, tối, sáng chẳng đồng, còn cái thấy không biến đổi thì sao lại
nói không khác?
Ông nên chín chắn suy xét: cái sáng là từ nơi mặt nhựt, cái
tối thuộc ban đêm, chỗ trống thuộc hư không, nơi bít là thuộc về đất; cái
"thấy" có biết còn hư không không biết, không phải hòa không phải
hiệp. Vậy cái "thấy" từ nơi đâu mà sanh, không phải tự nhiên
có?
Các ông không biết: trong chơn tâm, cái tánh của
"thấy" là tâm (giác minh), tâm là tánh của thấy; vốn sẳn thanh
tịnh khắp cả pháp giới, tùy tâm của chúng sanh phân biệt như nào, thì hiện
ra theo sự hiểu biết của chúng sanh như thế ấy. Như một con mắt là một cái
thấy. Cho đến tai nghe, mũi ngữi, miệng nếm, thân xúc, ý biết, sáu giác
quan cũng vậy, đều khắp cả pháp giới, tùy theo nghiệp của chúng sanh mà
hiện ra, không có phương hướng xứ sở gì.
LƯỢC GIẢI
Như điện, vào đèn thì đèn cháy, vào quạt quạt lại quay
v.v...điện không có phương hướng xứ sở gì, chỉ tùy duyên phát hiện. Còn tâm
cũng thế, tâm vẫn là một, nếu đến mắt thì thấy, còn đến tai thì nghe
v.v...tùy duyên phát hiện.
*
Thấy, nghe, hay, biết sáu giác quan kể là một, cùng với hư
không và bốn đại, thành ra sáu đại, tánh có viên dung vốn không lay động,
đồng một thể chơn tâm, không sanh không diệt, thế gian vì mê lầm không
biết, sanh tâm phân biệt, chấp cho nhân duyên sanh, hoặc tự nhiên có đều
không đúng cả.
III.-THỨC (PHÂN BIỆT) TỪ CHƠN TÂM ĐẾN THIỆN
-Này A-Nan, cái ""thức" (phân biệt) không có
căn nguyên, nhơn sáu căn và sáu trần mà vọng hiện. Ông nay dùng mắt xem
khắp trong hội này, thì con mắt của ông chẳng khác nào như cái kiếng chiếu
cảnh, không có phân biệt gì riêng khác. Rồi cái "thức" của ông
mới khởi lên, tuần tự phân biệt: đây là ông Văn Thù, kia là ông Phú-Lâu-Na,
đó là ông Mục-Kiền-Liên, nọ là ông Tu-Bồ-Đề v.v...vậy cái thức hiểu biết
phân biệt này, từ cái thấy sanh, hay từ nơi cảnh vật sanh? Từ hư không ra,
hay không do đâu mà tự xuất hiện?
A-Nan, nếu nói "cái thức của ông từ nơi cái thấy
sanh", mà không có tối, sáng, cảnh vật và hư không bốn món, thì cái
"thấy" của ông không có. Cái thấy còn không có, thời cái thức
phân biệt kia làm sao từ nơi cái thấy mà sanh được.
Còn nói "thức phân biệt này từ cảnh vật sanh, chớ không
phải từ nơi cái thấy". Nếu không có cái thấy để thấy tối, sáng, cảnh
vật và hư không các tướng, thời cái "thức" của ông từ nơi đâu mà
sanh được.
Còn nói "thức từ hư không sanh, không phải từ nơi cảnh
vật và cái thấy". Nếu không có cái "thấy" thời không thấy
được sáng, tối, cảnh vật và hư không. Còn nếu không có các cảnh vật thì
thấy, nghe, hay, biết không từ nơi đâu mà có.
Nếu nói "thức không phải từ cảnh vật và cái thấy
sanh" , như thế thì nó đồng với cái không. Còn nói "nó có mà
không phải đồng cảnh vật", thì dầu cho cái thức của ông có phát sanh
ra nữa, cũng không thể phân biệt cái gì được.
Nếu nói "thức không nhân đâu, thoạt nhiên xuất
hiện", thì sao khi ban ngày, ông không thể phân biệt được mặt
trăng?
Ông nên chín chắn suy xét: cái thấy thì nó gá nơi con mắt
của ông, còn các hình tướng là ở nơi cảnh vật. Những gì có hình tướng thời
có, còn không hình tướng là không. Cái "thức" thì động (có phân
biệt), còn cái thấy lại yên lặng (không phân biệt), không phải hòa không
phải hiệp. Vậy thì cái thức phân biệt của ông từ đâu sanh ra? Không lẽ
không do đâu mà tự có?
Các ông không biết trong chơn tâm, tánh của thức là tâm, tâm
mới thật là thức (chơn thức), nó nhiệm mầu yên lặng, sáng suốt, khắp giáp
cả pháp giới , hàm chứa và sanh ra mười phương hư không thế giới, chỉ tùy
theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra, không có phương hướng xứ sở. Thế
gian không biết, khởi thức tâm phân biệt chấp trước, cho là nhân duyên sanh
hoặc tự nhiên có v.v...đều không đúng cả.
Các ông nên biết: đất, nước, gió, lửa, hư không, cái thấy và
thức tâm gọi chung là bảy đại, tánh của nó đều là chơn tâm viên mãn khắp
giáp tất cả, vốn không sanh diệt. Các ông vì mê muội nên không biết.
LƯỢC GIẢI
Chúng ta nên phân biệt rõ ràng: "thức" và cái
"thấy".
Cái "thấy" là thuộc các giác quan, về phần trực
giác. Nó cũng như cái kiếng chiếu cảnh, không có phân biệt tính toán. Còn
"thức thì có phân biệt tốt, xấu, hay, dở v.v...so theo Duy thức tôn,
để nói cho dể hiểu: trong đây nói "thức" là chỉ cho thức thứ Sáu;
còn nói cái "thấy" là chỉ về năm thức trước.
Tóm lại, nói đất, nước, gió, lửa, hư không , cái thấy và
thức, cộng là bảy đại, gồm cả vật chất cả tinh thần.
Đất, nước, gió, lửa, hư không là thuộc về vật chất, còn thấy
các thức là thuộc về phần tinh thần. Trong vũ trụ tuy có thiên hình vạn
trạng, nhưng tóm lại thì không ngoài vật chất và tinh thần.
Đoạn này là cả nói về vật chất lẫn tinh thần đều từ nơi chơn
tâm, tùy theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra như thế này, hoặc như thế
kia, ngàn sai muôn khác. Như người chiêm bao thấy hiện ra các cảnh vật
(đât, nước v.v...)
Về bản thể (tâm) của bảy đại thì chơn, không có sanh diệt.
Còn về hiện tượng (các hình tướng) thì vọng. Vì chúng sanh mê muội không
biết, chấp thế này hoặc thế kia, (như người đương chiêm bao chấp các cảnh
chiêm bao là thật). Một phen ngộ được chơn tâm, thì bảy đại này đều trở về
thể tánh chơn tâm (như người thức giấc, thì cảnh chiêm bao liền hết; lúc
bấy giờ mới biết các cảnh vật trong chiêm bao đó, đều do tâm chiêm bao hiện
ra).
IV.- A-NAN VÌ NGỘ ĐƯỢC CHƠN TÂM NÊN ĐỨNG DẬY PHÁT LỜI THỀ
NGUYỆN RỘNG LỚN
Khi ấy A-Nan và đại chúng nhờ Phật chỉ dạy rất cặn kẽ, nên
mỗi người đều ngộ được chơn tâm của mình rộng lớn khắp cả mười phương hư
không. Lúc bấy giờ ông lại thấy cả mười phương thế giới rất nhỏ hẹp và rõ
ràng cũng như một lá cây cầm trong tay. Tất cả các cảnh vật sum-la
vạn-tượng trong thế gian này, đều ở trong chơn tâm; chơn tâm bao trùm khắp
giáp cả mười phương thế giới. Khi ấy ông xem trở lại cái thân do cha mẹ
sanh đây, thật nhỏ nhen làm sao! Như một hạt bụi nhỏ ở trong mười phương
hư-không, dù còn, dù mất cũng không thấm vào đâu và cũng như một hòn bọt
nhỏ, nỗi ở trong bể cả rộng khơi, dầu sanh dầu diệt cũng không nhằm
gì.
Vì ông A-Nan hiểu lộ được chơn tâm của mình còn không diệt
và rộng lớn như vậy, nên ông đứng trước Phật chắp tay kính lạy, và xứng
theo chơn tâm rộng lớn, mà nói bài kệ phát nguyện như vầy:
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Diệu trạm, Tổng trì, Bất động tôn
Thủ Lăng-Nghiêm vương, thế hi-hữu,
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng,
Bất lịch tăng-kỳ hoạch pháp thân.
Nguyện kim đắc quả thành bảo vương,
Hườn độ như thị hằng sa chúng,
Tuơng thử thâm tâm phụng trần sát,
Thị tắc danh vi báo Phật ân.
Phục chỉnh Thế-Tôn vị chứng minh:
Ngũ trược ác thế hệ tiên nhập,
Như nhất chúng sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ Nê-hoàn.
Đại hùng, đại lực, đại từ bi,
Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc,
Lĩnh ngã tảo đăng vô thượng giác,
Ư thập phương giới tọa đạo tràng
Thuấn-nhã-da tánh khả tiêu vong,
Thước-ca-ra tâm vô động chuyển.
DỊCH NGHĨA
Kính lạy Pháp thân, Báo-thân, Hóa-thân Phật, và kinh
Thủ-Lăng-Nghiêm vương là ngôi Pháp-bảo rất hi hữu trên đời. Tiêu trừ cho
con các vọng tưởng điên đảo từ ức kiếp, khiến con chẳng cần trải qua vô số
kiếp tu hành mà vẫn đặng pháp-thân Phật.
Hôm nay con nguyên mau đặng thành quả Phật, để trở lại độ
chúng sanh nhiều như hằng sa. Con nguyện đem thân-tâm này, phụng sự các Đức
Phật nhiều như vi trần. Thế mới gọi là đền ơn chư Phật.
Cúi xin Đức Thế-Tôn chứng minh cho lời nguyện của con:
"trong đời ngũ trược tội ác này, con thề vào trước để cứu khổ chúng
sanh ". Nếu còn một chúng sanh nào chưa được thành Phật, thì con thề
chẳng lãnh quả vui Niết-bàn.
Phật là đấng Đại-lực và Đại-từ-bi. Cúi xin Ngài tiêu trừ các
điều mê lầm vì tế cho con, khiến cho con sớm đặng thành quả Phật, để hóa độ
chúng sanh khắp cả mười phương thế giới. Giả sử hư không kia có thể tiêu
diệt hết, chớ chí nguyện của con đây chẳng hề lay động.
LƯỢC GIẢI
Ngài A-Nan vì ngộ được chơn tâm của mình rộng lớn bao hàm cả
vũ trụ: vô biên thế giới vô tận chúng sanh đều ở trong chơn tâm cả. Lúc bấy
giờ, Ngài thấy mười phương thế giới rất rõ ràng và rất nhỏ hẹp cũng như cái
lá cây nằm ở trong tay, còn thân này nhỏ nhen như hạt bụi bay trong hư
không, dầu còn dầu mất cũng chẳng thấm vào đâu.
Bởi Ngài ngộ được chơn tâm rộng lớn, cùng với chúng sanh
đồng một thể không hai, cho nên Ngài mới xứng theo chơn tâm rộng lớn, khởi
ra đồng thể đại bi, phát lời thề nguyện rộng sâu như thế.
Xem như câu:
Trong đời ngũ trược tội ác này, con thề vào trước để cứu khổ
chúng sanh. nếu còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì con thề chẳng
lãnh quả Niết-bàn ...
Và câu:
Giả sử hư không kia có thể tiêu hết, mà chí nguyện của con
đây chẳng hề lay động.
Trong kinh nói: "thế giới vô biên, chúng sanh vô
tận", biết bao giờ độ cho hết tất cả chúng sanh, mà Ngài lại thề
nguyện xung phong vào đời ngũ trược tội ác trước hết, để cứu độ chúng sanh.
Nếu còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì Ngài chẳng chịu an vui ở
cảnh Niết-bàn.
Thật là lòng từ bi rộng lớn vô cùng, chí nguyện cao thượng
huyền diệu sinh độ đời của Ngài như thế, đáng cho chúng ta trọn đời bái
phục...
Trông lên Ngài rồi ngó lại ta...thấy rõ tâm chí và hành vi
của mình, thật cũng quá ư hẹp hòi và thấp thỏi!
|
|
|